1986 Hướng dẫn đào tạo Linh Mục tương lai về Truyền thông Xã hội
BỘ GIÁO DỤC CÔNG GIÁO
CẨM NANG HƯỚNG DẪN ĐÀO TẠO LINH MỤC TƯƠNG LAI LIÊN QUAN ĐẾN CÁC PHƯƠNG TIỆN TRUYỀN THÔNG XÃ HỘI
Chuyển ngữ: Tu sĩ Lm. Phêrô Nguyễn Văn Dũng, OFM (www.communication-theology.com)
DẪN VÀO VĂN KIỆN (*)
Để tiếp nối tinh thần của Công Đồng Vatican II được thể hiện trong hai văn kiện quan trọng về đào tạo linh mục (Optatam Totius) và đời sống linh mục (Presbyterorum Ordinis), Bộ Giáo dục Công giáo đã ban hành văn kiện Ratio Fundamentalis vào năm 1971. Văn kiện này được xem như một bản kế hoạch nền tảng cho việc đào tạo linh mục, vạch ra những định hướng quan trọng cho công tác đào tạo tại các chủng viện và các học viện. Kể từ khi được ban hành cho đến nay, Ratio Fundamentalis vẫn luôn là kim chỉ nam cho mọi chương trình đào tạo linh mục trên toàn thế giới.
Nhằm cụ thể hóa và triển khai hơn nữa chương trình cơ bản Ratio Fundamentalis, Bộ Giáo dục Công giáo đã cho ấn hành một chuỗi các "cẩm nang" và tài liệu hướng dẫn, tập trung vào từng khía cạnh cụ thể trong tiến trình đào tạo linh mục. Trong số đó, có thể kể đến các văn kiện về đào tạo thần học (1976), triết học (1972), phụng vụ (1979), giáo luật (1975), đời sống độc thân linh mục (1974), các khía cạnh của đời sống tinh thần (1980), học thuyết xã hội của Giáo Hội (1988), và các giáo phụ (1989). Cẩm nang Đào tạo Linh mục Tương lai về việc Sử dụng các Phương tiện Truyền thông Xã hội (1986) chính là một mắt xích quan trọng trong chuỗi tài liệu này.
Ngay từ Ratio Fundamentalis, trong phần "Nghiên cứu về Nghệ thuật và Khoa học", đoạn 68 đã mở đầu bằng nhận định: "Trong thời đại ngày nay, ngoài sách vở và thầy cô giáo, con người còn tiếp nhận thông tin và hình thành quan điểm thông qua các phương tiện nghe nhìn. Vì thế, việc các linh mục am hiểu và sử dụng thành thạo các phương tiện này là vô cùng cần thiết. Tuy nhiên, điều quan trọng là phải có thái độ đúng đắn, biết sử dụng chúng một cách sáng suốt, phê phán, chứ không nên chỉ là những người tiếp nhận thụ động."
Có một điểm cần lưu ý là, trong khi Ratio Fundamentalis sử dụng khái niệm "phương tiện nghe nhìn", thì "Cẩm nang" lại tập trung vào "các phương tiện truyền thông của thời đại", thường được gọi chung là "truyền thông đại chúng". Cách sử dụng thuật ngữ này dường như chưa thật sự đầy đủ so với tinh thần của văn kiện Inter Mirifica. Văn kiện này đã chỉ ra rằng, những cách diễn đạt như "truyền thông đại chúng", "kỹ thuật truyền bá", "truyền thông đại chúng" hay "nghe nhìn" chưa thể bao quát hết ý nghĩa mà Ủy ban Chuẩn bị Sắc lệnh của Công Đồng muốn đề cập. Do đó, Inter Mirifica đã đề xuất khái niệm "Truyền thông Xã hội", với ý nghĩa rộng hơn, bao gồm tất cả các phương tiện truyền thông trong xã hội, chứ không chỉ giới hạn ở truyền thông đại chúng. Cách tiếp cận rộng mở này đặc biệt quan trọng trong bối cảnh nhiều nền văn hóa, đặc biệt ở các nước đang phát triển, nơi các phương tiện truyền thông truyền thống vẫn giữ vai trò quan trọng hơn so với truyền thông đại chúng hiện đại. Tuy nhiên, "Cẩm nang" dường như chưa phản ánh đầy đủ tinh thần đó khi tập trung chủ yếu vào "truyền thông đại chúng". Mặc dù vậy, bản thân "Cẩm nang" cũng thừa nhận "nhu cầu mục vụ đòi hỏi chúng ta đôi khi cũng phải quan tâm đến việc nghiên cứu và thực hành các phương tiện và công cụ biểu đạt và truyền thông khác, chẳng hạn như sân khấu, nghệ thuật tạo hình, v.v., ngay cả khi chúng nằm ngoài giới hạn mà chúng tôi đã chỉ ra ở trên" (số 7). Rõ ràng, "Cẩm nang" năm 1986 chưa thể bao quát hết những phương thức truyền thông mới như truyền thông kỹ thuật số ngày nay.
Điều đáng chú ý là, khi giới thiệu "Cẩm nang", Đức Hồng y William Baum, Tổng trưởng Bộ Giáo dục Công giáo, đã nhấn mạnh việc Bộ đã tham khảo ý kiến rộng rãi từ các chuyên gia, đặc biệt là Ủy ban Giáo hoàng về Truyền thông Xã hội. Ngài khẳng định, các học viện đào tạo linh mục cần "khẩn trương quan tâm đến những vấn đề cốt lõi liên quan đến việc tiếp nhận thông tin cá nhân, mục vụ truyền thông và đào tạo chuyên sâu về truyền thông". Hơn nữa, chính Bộ Giáo dục Công giáo, đơn vị đã xuất bản "Cẩm nang" năm 1986, trong Chỉ thị về việc Chuẩn bị cho các Nhà đào tạo Chủng sinh (1993), tiếp tục nhấn mạnh đến nhu cầu và năng lực truyền thông của các nhà đào tạo. Văn kiện này khẳng định: Họ cần có "năng lực cơ bản về khoa học truyền thông giữa các cá nhân và động lực của việc ra quyết định của con người" (số 38).
Khác với "Cẩm nang" năm 1986, Chỉ thị năm 1993 đã đưa ra một cái nhìn mới về vai trò của truyền thông trong đào tạo linh mục, vượt ra khỏi khuôn khổ truyền thông đại chúng. Văn kiện này nhấn mạnh: "... nhà giáo dục cần là một người truyền thông tốt, có khả năng diễn đạt rõ ràng các giá trị và khái niệm trong chương trình đào tạo, phù hợp với khả năng tiếp thu của học viên. Chính vì vậy, chủng viện, trong quá trình thực hiện nhiệm vụ giáo dục, cần trở thành một trường học của truyền thông, nơi khơi dậy sức sống đích thực và đồng thời chuẩn bị cho các linh mục tương lai sứ mạng cao cả là Loan báo Tin Mừng".
Ngay từ năm 1986, "Cẩm nang" (số 24) đã đề cập đến tầm quan trọng của việc xây dựng môi trường truyền thông tích cực giữa học viên và nhà giáo dục. Việc này giúp rèn luyện kỹ năng đối thoại, trau dồi khả năng sử dụng ngôn ngữ chính xác, trình bày rõ ràng, và đặc biệt là tránh sự thụ động do tiếp nhận thông tin một chiều từ truyền thông đại chúng. Văn kiện cũng nhấn mạnh các giáo viên cần "trau dồi khả năng truyền thông tốt nhất có thể" (số 39).
Văn kiện Đời sống Huynh đệ trong Cộng đoàn (ngày 2 tháng 2 năm 1994) của "Bộ Tu sĩ và Tu đoàn Giáo hoàng Rôma" đã dành riêng một phần để nhấn mạnh tầm quan trọng của việc "truyền thông để cùng nhau lớn lên" (số 29-34). Nguyên tắc này hoàn toàn phù hợp để áp dụng cho các cộng đoàn chủng viện, đồng thời cần được hiểu trong mối liên hệ mật thiết với "Cẩm nang".
Bên cạnh nội dung chính, "Cẩm nang" còn bao gồm hai phụ lục được cho là do Cha Enrico Baragli, SJ, tác giả bản thảo gốc, biên soạn. Phụ lục thứ nhất cung cấp danh sách trích dẫn từ 41 văn kiện chính thức của Giáo hội (1935-1985) liên quan đến việc đào tạo giáo sĩ về truyền thông đại chúng, trong đó có các điều khoản tương ứng trong Bộ Giáo luật mới (666, 747, 761, 779, 804, 822, 823,1063,1369). Phụ lục thứ hai là "danh mục chủ đề" gồm các nội dung nghiên cứu và giảng dạy được phân chia theo bốn nhóm chính: a. Truyền thông Nhân bản b. Phương tiện và Công cụ Truyền thông và Giáo hội c. Cách tiếp cận Mục vụ đối với Truyền thông Đại chúng nói chung, và d. Cách tiếp cận Mục vụ đối với các Phương tiện Truyền thông cá nhân.
"Cẩm nang" được gửi đến "trước hết là các Hội đồng Giám mục," các giám mục giáo phận và "các vị bề trên và giáo sư trong các chủng viện" (số 6)
NỘI DUNG CHÍNH
I. LỜI MỞ ĐẦU
1.1 Truyền Thông nhân loại (1)
1.2 Mặc khải và Truyền thông (2)
1.3 Từ Truyền thông đến Hiệp thông (3)
1.4 Phương tiện Truyền thông Xã hội và Chức Linh mục (4-5)
1.5 Vai trò, Đối tượng và Tiêu chí của Cẩm nang (6-8)
II. NHỮNG NGUYÊN TẮC CHUNG
2.1 Cấp độ Đào tạo và Phân loại: Giáo dục Truyền thông, Đào tạo Mục vụ, Đào tạo Chuyên sâu (9-10)
2.2 Tầm quan trọng của Đào tạo Toàn diện (11)
2.3 Học thuyết Chính thống và Những Yếu tố Hỗ trợ Cần thiết (12-13)
III. NHỮNG QUY ĐỊNH CỤ THỂ
3.1 Cấp độ Cơ bản: Giáo dục Truyền thông (14-19)
3.2 Cấp độ Đào tạo Mục vụ (20-26)
3.3 Đào tạo Chuyên sâu (27-28)
PHỤ LỤC:
1- Đào tạo Linh mục về Truyền thông Đại chúng trong các Văn kiện Chính thức của Giáo hội.
2- Danh mục Chủ đề
------
(*): Phần DẪN VÀO VĂN KIỆN, chuyển ngữ từ tác giả linh mục Franz-Josef Eilers, SVD, trong tập sách "Church & Social Communication – Basic Documents 1936-2014". Third Edition. Manila: Logos (Divine Word) Publications, 2014, pages 209-254.
BỘ GIÁO DỤC CÔNG GIÁO
CẨM NANG HƯỚNG DẪN ĐÀO TẠO LINH MỤC TƯƠNG LAI LIÊN QUAN ĐẾN CÁC PHƯƠNG TIỆN TRUYỀN THÔNG XÃ HỘI
Nguồn tài liệu: Guide to the training of future priests concerning the instruments of social communications (March 19, 1986)
LỜI GIỚI THIỆU
Sắc lệnh Inter Mirifica, được ban hành bởi Công Đồng Chung Vatican II, nhằm giải quyết hiện tượng phức tạp của các phương tiện truyền thông xã hội hiện đại, đã làm sáng tỏ nhiều vấn đề liên quan đến mục vụ và đào tạo. Những vấn đề này ảnh hưởng đến toàn thể Dân Chúa, bao gồm hàng giáo sĩ, giáo dân, các tổ chức tông đồ và giáo dục, trong đó các chủng viện giữ vai trò đặc biệt quan trọng. Việc đề cập ngắn gọn đến vấn đề này trong số 16 của sắc lệnh, sau đó được phân tích sâu hơn trong số 111 của Huấn thị Communio et Progressio và số 68 của Ratio Fundamentalis, là một tài liệu tham khảo quan trọng cho các cơ sở đào tạo linh mục (khoa thần học, chủng viện, học viện dòng tu), đồng thời là động lực thúc đẩy hoạt động giảng dạy và mục vụ thực tiễn của họ.
Sự đa dạng về hoàn cảnh địa phương khiến cho công tác đào tạo về truyền thông xã hội và kết quả đạt được không đồng đều. Lĩnh vực này còn khá non trẻ, thiếu kinh nghiệm thực tiễn và đội ngũ giảng dạy chất lượng, dẫn đến công tác đào tạo còn nhiều khó khăn, thiếu bài bản và chưa đáp ứng được nhu cầu. Trong bối cảnh đó, sự phát triển chóng mặt của công nghệ và kỹ thuật truyền thông, tác động đến mọi mặt đời sống văn hóa, xã hội và tinh thần của con người, càng làm nổi bật sự tụt hậu về tổ chức và kỹ thuật ở một số nơi (xem Thông điệp của Đức Gioan Phaolô II nhân Ngày Thế giới Truyền thông Xã hội lần thứ XIX, 15/04/1985).
Trước tình hình cấp bách là phải trang bị cho các linh mục tương lai những kiến thức và kỹ năng cần thiết về truyền thông xã hội, Bộ Giáo dục Công giáo, với sự cộng tác của các chuyên gia và Ủy ban Truyền thông Xã hội Toà Thánh, long trọng giới thiệu "Cẩm nang" này như một tài liệu hướng dẫn thiết thực cho các chủng viện. Trong bối cảnh lĩnh vực truyền thông không ngừng phát triển và hoàn cảnh mỗi nơi mỗi khác, Cẩm nang xác định một số vấn đề cốt lõi mà mọi chủng viện cần tập trung giải quyết, bao gồm: thái độ tiếp nhận thông tin của cá nhân, việc sử dụng phương tiện truyền thông trong mục vụ, và đào tạo chuyên sâu về truyền thông. Dựa trên kinh nghiệm thực tiễn phong phú, Cẩm nang đưa ra những định hướng chung cho ba cấp độ đào tạo, đồng thời nhấn mạnh vai trò chủ động của các Đức Giám mục và các nhà giáo dục trong việc áp dụng linh hoạt cho phù hợp với đặc thù của từng địa phương.
Chúng tôi ý thức rằng tài liệu này chắc chắn còn nhiều thiếu sót. Tuy nhiên, với tất cả sự khiêm tốn, chúng tôi hy vọng rằng quý độc giả sẽ đón nhận tài liệu này với tinh thần cởi mở và tìm thấy trong đó những gợi ý hữu ích cho việc đào tạo các linh mục tương lai, phù hợp với tinh thần Công Đồng Vatican II và đáp ứng những đòi hỏi mới của thời đại. Ước mong sao tài liệu này sẽ được áp dụng rộng rãi tại các chủng viện, góp phần đào tạo những mục tử như lòng Chúa mong ước, vì ích lợi của Giáo Hội và của các linh hồn.
Roma, Văn phòng Bộ Giáo dục Công giáo, ngày 19 tháng 3 năm 1986, Lễ Thánh Giuse.
Hồng Y WILLIAM CARDINAL BAUM, Tổng Trưởng
ANTONIO M. JAVIERRE ORTAS, Tổng Giám mục hiệu tòa Meta, Thư ký
DẪN NHẬP
1. Truyền thông nhân loại, một món quà của Chúa. Là Đấng Tuyệt Đối Hoàn Hảo, Thiên Chúa luôn tuôn đổ muôn vàn ân sủng cho nhân loại, những tạo vật được Ngài yêu thương và chăm sóc đặc biệt, như lời hứa về ngày Ngài sẽ ban tặng chính Ngài một cách trọn vẹn trong vinh quang thiên quốc. Không chỉ dừng lại ở đó, để hình ảnh của Ngài nơi con người ngày càng phản chiếu sự hoàn mỹ của Người (x. Mt 5,48), Thiên Chúa muốn con người cộng tác vào công trình sáng tạo của Ngài, để họ trở thành những sứ giả, những người gieo rắc ân sủng cho anh chị em mình và cho toàn thể nhân loại.
Thực vậy, bởi chính bản chất của mình, ngay từ những khoảnh khắc đầu tiên hiện hữu trên cõi đời, con người đã khao khát chia sẻ những giá trị tinh thần cho đồng loại [1] bằng những dấu hiệu mà giác quan có thể cảm nhận. Theo dòng thời gian, con người dần khám phá và sáng tạo ra những phương tiện truyền thông vượt qua mọi giới hạn về không gian và thời gian. Cho đến ngày nay, với sự phát triển vượt bậc của công nghệ, việc kết nối và truyền thông tức thời trên toàn cầu đã trở thành hiện thực. Những công cụ hiện đại như tin học, viễn thông không ngừng được cải tiến với tốc độ đáng kinh ngạc, mở ra những khả năng kết nối chưa từng có.
2. Mặc khải và truyền thông. Giáo Hội không thể đứng ngoài dòng chảy quan phòng ấy, bởi Giáo Hội được trao phó sứ mạng cao cả là loan báo chân lý mặc khải của Thiên Chúa cho muôn dân. Xưa kia, Thiên Chúa đã nhiều lần và bằng nhiều cách phán dạy tổ phụ chúng ta qua các tiên tri. Nay, vào thời sau hết này, Ngài đã phán dạy chúng ta qua Con của Ngài (Dt 1,1-2) và Ngài muốn cho những điều Ngài đã mặc khải để cứu độ muôn dân được gìn giữ trọn vẹn và truyền đạt cho mọi thế hệ. Chính vì thế, Chúa Giêsu Kitô... đã truyền cho các tông đồ ra đi rao giảng Tin Mừng cho muôn dân. Các ngài đã trung thành thi hành sứ mạng: rao giảng bằng lời nói, bằng đời sống chứng tá và thiết lập các cộng đoàn, truyền đạt lại tất cả những gì đã lãnh nhận từ chính Chúa Kitô - qua lời Người dạy, qua cuộc đời và những việc Người làm... Các tông đồ và những cộng sự của các ngài đã ghi chép lại sứ điệp cứu độ, lưu truyền cho hậu thế.
“Nhằm bảo tồn trọn vẹn và sống động kho tàng Tin Mừng trong lòng Giáo Hội, các tông đồ đã thiết lập hàng giám mục kế vị mình, trao ban cho các ngài "chính quyền bính giảng dạy" mà các ngài đã lãnh nhận.” [2]
3. Từ “truyền thông” đến “hiệp thông”. Trong thời đại hiện nay, Giáo Hội nhận thức sâu sắc về vai trò quan trọng của các phương tiện truyền thông xã hội như những khí cụ hữu hiệu để Giáo Hội thực thi sứ mạng loan báo Tin Mừng "từ trên nóc nhà" (Lc 12, 3), "cho muôn dân" (Mc 16, 15), "đến tận cùng trái đất" (Cv 1, 8). Hơn nữa, Giáo Hội luôn quan tâm đến việc giáo dục và chăm sóc con người toàn diện, cả về phương diện nhân bản và Kitô giáo. Giáo Hội chào đón các phương tiện truyền thông như "những phát minh kỳ diệu của ngày nay có tác động mạnh mẽ đến tâm trí con người" [3] và như "những thành quả tuyệt vời của lao động và trí tuệ con người, là hồng ân Thiên Chúa ban tặng, nguồn mạch mọi sự tốt lành". [4]
Tuy nhiên, ý thức rõ về những mặt trái về văn hóa và luân lý đôi khi hiện diện trong các chương trình truyền thông, Giáo Hội "với sự quan tâm và cảnh giác" [5] đã và đang nỗ lực hết mình để ngăn chặn mọi hình thức "lợi dụng (truyền thông) trái với kế hoạch của Đấng Tạo Hóa" [6] và gây phương hại đến các tạo vật của Người.
Giáo huấn hậu công đồng của Giáo Hội nhấn mạnh rằng, trong lý tưởng, "truyền thông" cần hướng đến "hiệp thông", bất kể đó là truyền thông giữa cá nhân hay truyền thông đại chúng. Giáo huấn đưa ra sự so sánh với hai hình mẫu thần linh về sự truyền thông-hiệp thông trọn hảo. Hình mẫu đầu tiên chính là Chúa Giêsu Kitô, "Đấng Truyền Thông hoàn hảo", Đấng đã mặc lấy "bản tính của những ai đón nhận lời Người" và truyền tải thông điệp không chỉ bằng lời nói mà bằng chính cuộc sống của Người. Người nói từ nội tâm, từ trong lòng dân tộc mình. Người thấu hiểu cách nói, cách nghĩ của họ và nói lên những điều phù hợp với hoàn cảnh của họ...
"Qua việc thiết lập Bí tích Thánh Thể, Chúa Kitô ban cho chúng ta hình thức hiệp thông cao quý và thân mật nhất giữa Thiên Chúa và con người... Hơn nữa, Chúa Kitô ban cho chúng ta Thánh Thần, Đấng ban sự sống và liên kết mọi người nên một". [7]
Hình mẫu thứ hai được tìm thấy trong "mầu nhiệm trung tâm về sự hiệp thông vĩnh cửu giữa Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, những Đấng cùng chung hưởng một đời sống thần linh duy nhất". [8]
4. Phương tiện truyền thông xã hội và sứ vụ linh mục. Trong những thập kỷ gần đây, truyền thông xã hội đã tác động mạnh mẽ và sâu rộng đến hầu hết mọi lĩnh vực, tầng lớp và mối quan hệ trong xã hội. Những vấn đề mới nảy sinh từ ảnh hưởng ngày càng tăng này đã thôi thúc giáo quyền của Giáo Hội đưa ra nhiều giáo huấn, lời khuyên và quy định nhằm bảo vệ và mang lại lợi ích không chỉ cho các tín hữu và mọi người thiện chí, mà còn cho tất cả những ai được mời gọi thi hành sứ vụ linh mục trong thế giới hôm nay.[9].
Căn cứ theo những định hướng đã được Giáo Hội chính thức ban hành, Thánh Bộ, từ năm 1970, trong văn kiện Ratio Fundamentalis Institutionis Sacerdotalis, đã đề ra những hướng dẫn mang tính chất tổng quát về các vấn đề liên quan đến việc sử dụng các phương tiện truyền thông xã hội. Đồng thời, Thánh Bộ cũng đặc biệt nhấn mạnh đến việc đào tạo các chủng sinh trong các chủng viện về cách thức sử dụng đúng đắn các phương tiện này. Yêu cầu mang tính cấp thiết này được đưa ra nhằm hướng đến ba mục tiêu trọng yếu: Thứ nhất, giúp các chủng sinh rèn luyện sự tự giác và kỷ luật trong việc sử dụng các phương tiện truyền thông; Thứ hai, từ đó, họ có thể hướng dẫn các tín hữu thực hành sự điều độ và khôn ngoan tương tự; và Thứ ba, trang bị cho họ những kiến thức và kỹ năng cần thiết để sử dụng hiệu quả các phương tiện truyền thông xã hội trong sứ vụ tông đồ của mình. [10]
Cùng chung quan điểm, Huấn thị Mục vụ Communio et Progressio, được ban hành vào năm tiếp theo, đã một lần nữa khẳng định tầm quan trọng của việc trang bị kiến thức về truyền thông cho các chủng sinh và tu sĩ. Văn kiện này nêu rõ: "Nhằm mục tiêu giúp các ứng sinh linh mục và tu sĩ đang trong giai đoạn đào tạo có thể hòa nhập vào đời sống hiện đại và đồng thời gặt hái được những thành quả tích cực trong sứ vụ tông đồ của mình, điều cần thiết là họ phải được trang bị những hiểu biết sâu sắc về cách thức vận hành của các phương tiện truyền thông xã hội, cũng như những kỹ thuật sử dụng chúng một cách hiệu quả. Những kiến thức nền tảng này cần phải được xem là một phần không thể thiếu trong chương trình đào tạo chính quy của họ."[11]
5. Thực trạng. Theo tinh thần của Ratio Fundamentalis, các Hội đồng Giám mục, trong quá trình soạn thảo Ratio cho quốc gia mình, cần đặc biệt lưu tâm đến những hướng dẫn đã được đề ra, nhằm đảm bảo việc áp dụng một cách cụ thể và hiệu quả vào hệ thống quy định và chương trình đào tạo của mỗi chủng viện.
Tuy nhiên, việc đưa một yếu tố hoàn toàn mới vào chương trình đào tạo của chủng viện chắc chắn sẽ vấp phải những khó khăn nhất định. Nắm bắt được thực tế này, vào năm 1977, Thánh Bộ đã tiến hành một cuộc khảo sát quy mô trên toàn bộ các chủng viện, bao gồm cả chủng viện lớn và nhỏ, nhằm mục đích đánh giá mức độ hiểu biết và thực hiện chỉ thị về việc đưa chương trình đào tạo về lĩnh vực truyền thông xã hội vào chương trình đào tạo của các chủng viện.
Kết quả thu được từ cuộc khảo sát cho thấy, mặc dù vấn đề này đã nhận được sự quan tâm nhất định từ hầu hết các trung tâm đào tạo giáo sĩ, nhưng các chương trình đào tạo bài bản và có hệ thống vẫn còn rất thiếu và yếu. Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến thực trạng này có thể kể đến như: sự thiếu hiểu biết một cách toàn diện và sâu sắc về mục tiêu, phạm vi cũng như ý nghĩa của việc xây dựng và triển khai chương trình đào tạo; sự nhập nhằng trong việc phân định rõ ràng mục tiêu và cấp độ đào tạo theo tinh thần của đề xuất; sự thiếu hụt trầm trọng về đội ngũ giảng viên có chuyên môn và kinh nghiệm trong lĩnh vực truyền thông; và cuối cùng là tình trạng thiếu thốn về cơ sở vật chất, trang bị kỹ thuật cũng như nguồn lực tài chính.
6. Mục đích của Tài liệu hướng dẫn. Mặc dù đã có nhiều nỗ lực, nhưng những bất cập trong việc đào tạo truyền thông tại các chủng viện vẫn chưa được khắc phục triệt để. Trong bối cảnh truyền thông ngày càng phát triển với tốc độ chóng mặt, khoảng cách giữa chương trình đào tạo và thực tiễn ngày càng rộng. Trước tình hình đó, Thánh Bộ, sau khi hội ý với Ủy ban Giáo hoàng về Truyền thông Xã hội và ghi nhận những nỗ lực của các chủng viện và học viện, nhận thấy sự cần thiết phải ban hành Tài liệu Hướng dẫn này, nhằm cung cấp những khuyến nghị, đề xuất và chỉ dẫn mang tính định hướng cho việc xây dựng và triển khai chương trình đào tạo truyền thông một cách bài bản và hiệu quả tại các chủng viện. Do đặc thù của lĩnh vực truyền thông luôn thay đổi và sự đa dạng về hoàn cảnh thực tế tại các giáo phận, [12] nên Tài liệu Hướng dẫn chủ yếu đưa ra những nguyên tắc và hướng dẫn chung, nhằm đảm bảo sự linh hoạt trong quá trình áp dụng. Tuy nhiên, mục tiêu cuối cùng vẫn là thực hiện một cách thống nhất và hiệu quả các chỉ thị của Giáo hội và tinh thần của Ratio Fundamentalis trong việc đào tạo truyền thông cho các chủng sinh. Tài liệu Hướng dẫn này được gửi đến các Hội đồng Giám mục, các Đức Giám mục giáo phận, các bề trên, giáo sư và trước hết là các chủng sinh đang được đào tạo tại các chủng viện lớn và nhỏ. Bên cạnh đó, Tài liệu này cũng có thể là tài liệu tham khảo hữu ích cho các chủng viện và học viện đào tạo linh mục khác.
7. Đối tượng của Tài liệu Hướng dẫn. Tài liệu Hướng dẫn này chủ yếu nhằm hướng dẫn việc khởi xướng và cung cấp kiến thức, kỹ năng liên quan đến các phương tiện truyền thông hiện đại, thường được gọi là phương tiện truyền thông đại chúng, [13] hay còn được biết đến với nhiều tên gọi khác nhau như kỹ thuật phổ biến, truyền thông đại chúng, nghe nhìn... Tuy nhiên, để tránh sự nhầm lẫn và không rõ ràng, Sắc lệnh Inter mirifica và sau này là Bộ Giáo luật mới [14] đã thống nhất sử dụng thuật ngữ "phương tiện truyền thông xã hội" để chỉ "báo chí, điện ảnh, đài phát thanh, truyền hình và các phương tiện khác có đặc điểm tương tự" (số 1). Điểm đặc biệt của nhóm phương tiện này chính là sự ứng dụng công nghệ cao, khả năng lan truyền thông tin nhanh chóng, phạm vi rộng rãi, tác động mạnh mẽ đến công chúng và góp phần hình thành nên hiện tượng xã hội hóa [15] đang ngày càng phát triển trong thời đại ngày nay.
Tài liệu Hướng dẫn này cũng đề cập đến những vấn đề xã hội, văn hóa, luân lý và mục vụ liên quan đến việc sử dụng các phương tiện truyền thông xã hội. Trước hết là những vấn đề phát sinh trong truyền thông con người nói chung, sau đó là những vấn đề liên quan đến công nghệ được sử dụng, đặc biệt là công nghệ vi điện tử [16] ngày càng phổ biến hiện nay.
Bên cạnh đối tượng chính nêu trên, Tài liệu Hướng dẫn còn khuyến khích việc nghiên cứu và ứng dụng các hình thức truyền thông và biểu đạt khác như sân khấu, hội họa... mặc dù chúng không thuộc phạm vi chính của Tài liệu.
8. Khuôn khổ biên soạn. Tài liệu Hướng dẫn này không nhằm mục đích phân tích chi tiết các vấn đề kỹ thuật hay lý thuyết phức tạp liên quan đến phương tiện truyền thông đại chúng và những hiện tượng xã hội, văn hóa phát sinh, vốn là lĩnh vực còn nhiều luồng ý kiến khác nhau, ngay cả trong giới học giả. Tài liệu cũng không trình bày lại một cách toàn diện những giáo huấn của Giáo hội về truyền thông đã được ban hành trong suốt năm thập kỷ qua, mà thay vào đó là sự tổng hợp cô đọng, chắt lọc những nội dung thiết yếu trong Phụ lục I. Đồng thời, nhằm hỗ trợ cho quá trình nghiên cứu và ứng dụng, Phụ lục II sẽ cung cấp danh mục các chủ đề cụ thể, cần thiết cho ba cấp độ khởi xướng và giáo dục truyền thông xã hội.
A) NHỮNG NGUYÊN TẮC CHUNG
9. Phân cấp đào tạo. Để nâng cao hiệu quả cho quá trình trang bị kiến thức và kỹ năng sử dụng truyền thông xã hội, chương trình đào tạo sẽ được triển khai theo ba cấp độ với những đối tượng và mục tiêu khác nhau:
Cấp độ 1: Cấp độ cơ bản, hướng đến mọi đối tượng, nhằm nâng cao nhận thức và kỹ năng tiếp nhận thông tin từ các phương tiện truyền thông đại chúng. [17]
Cấp độ 2: Cấp độ mục vụ, dành riêng cho các ứng viên linh mục, trang bị cho họ nền tảng vững chắc về truyền thông, từ đó có thể hướng dẫn cộng đoàn sử dụng một cách khôn ngoan, hiệu quả và ứng dụng linh hoạt vào công tác mục vụ.
Cấp độ 3: Cấp độ chuyên sâu, đào tạo bài bản, chuyên nghiệp, dành cho những ai đang hoạt động trong lĩnh vực truyền thông, hoặc những người có năng khiếu, sở trường và mong muốn theo đuổi lĩnh vực này.[18] Bên cạnh đó, cấp độ này còn đào tạo đội ngũ giảng viên truyền thông, góp phần nhân rộng nguồn nhân lực chất lượng cho công cuộc loan báo Tin Mừng trong thời đại mới.
10. Nguyên tắc phân định. Để đảm bảo tính chính xác và tránh những hiểu lầm không đáng có, ở mỗi cấp độ đào tạo, cần phân định rõ ràng giữa những vấn đề thuộc phạm trù nghiên cứu về bản chất các phương tiện truyền thông xã hội và những vấn đề khác có liên quan nhưng không thuộc đối tượng nghiên cứu trực tiếp. Để thực hiện được điều này, cần lưu ý:
a) Sử dụng thuật ngữ chính xác, phù hợp với ngữ cảnh và tham chiếu các cách hiểu được công nhận bởi các chuyên gia và trường phái nghiên cứu uy tín. Đặc biệt quan trọng, cần nắm vững ý nghĩa pháp lý của các thuật ngữ chuyên môn được quy định trong Bộ Giáo luật, nhằm đảm bảo tính đồng nhất và thống nhất trong giáo huấn của Giáo hội.
b) Cần đặc biệt lưu ý phạm vi nghiên cứu của khái niệm "công cụ truyền thông xã hội".[19] Theo đó, khái niệm này chỉ bao hàm các phương tiện truyền thông đại chúng sở hữu đặc tính kỹ thuật đồng nhất, bao gồm: báo chí và ấn phẩm thông tin định kỳ, điện ảnh, phát thanh, truyền hình. Cần phân biệt rõ ràng "công cụ truyền thông xã hội" với các loại hình biểu đạt khác, mặc dù đóng vai trò quan trọng trong đời sống tinh thần nhưng không mang đặc tính kỹ thuật như trên (ví dụ: nghệ thuật sân khấu); các hoạt động truyền thông ứng dụng công nghệ tương tự nhưng khác biệt về bản chất (ví dụ: hoạt động xuất bản); và các phương tiện truyền thông bổ trợ, có chức năng hỗ trợ cho hoạt động của "công cụ truyền thông xã hội", bao gồm: đĩa hát, băng cassette, phim ảnh trình chiếu và các loại hình truyền thông nhóm, đa phương tiện, truyền thông cá nhân (đã được đề cập trong mục 7).
c) Trong bối cảnh toàn cầu hóa và bùng nổ thông tin, công nghệ truyền thông xã hội đang trên đà phát triển vũ bão theo hướng tích hợp viễn thông và tin học, biến truyền thông đại chúng trở thành đối tượng, phương tiện và đồng thời là tấm gương phản chiếu hiện thực xã hội. Do đó, việc nghiên cứu về truyền thông cần tránh cách tiếp cận phiến diện, cô lập một loại hình truyền thông nào (ví dụ: chỉ tập trung vào điện ảnh hoặc truyền hình) mà bỏ qua sự liên kết và ảnh hưởng qua lại giữa chúng. Tương tự, việc đề cập đến một khía cạnh riêng lẻ của một phương tiện truyền thông (ví dụ: văn hóa hình ảnh) cũng là một sai lầm trong phương pháp nghiên cứu. Thay vào đó, cần có cái nhìn toàn diện, coi truyền thông như một hệ sinh thái thống nhất và phân tích đa chiều dựa trên nền tảng lý luận vững chắc của các nhà nghiên cứu hàng đầu, chẳng hạn như các luận điểm về "đối thoại toàn cầu", "ngôi làng toàn cầu", "con người một chiều", "con người lệ thuộc máy tính ", v.v...
d) Trong hệ quy chiếu rộng lớn hơn của các hiện tượng vĩ mô thuộc lĩnh vực văn hóa - xã hội, cần ưu tiên dành sự quan tâm đặc biệt cho các vấn đề liên quan đến hoạt động thông tin, tuyên truyền, quảng cáo, hình thành dư luận xã hội và sử dụng thời gian giải trí, tập trung phân tích và làm rõ mối liên hệ cụ thể giữa các vấn đề này với vai trò, ảnh hưởng của các phương tiện truyền thông.
11. Phương pháp tiếp cận toàn diện trong đào tạo. Ở hai cấp độ đào tạo ban đầu, bao gồm cấp độ cơ bản và cấp độ mục vụ, chương trình đào tạo cần đặc biệt chú trọng đến việc trang bị cho sinh viên một nền tảng kiến thức và kỹ năng toàn diện về phương tiện truyền thông đại chúng. Cần xác định rõ ràng giới hạn, phạm vi và nội dung chuyên biệt trong quá trình tiếp cận và sử dụng các phương tiện này. Đồng thời, cần tăng cường đẩy mạnh hoạt động thực hành trong giảng dạy nhằm nâng cao hiệu quả đào tạo. Cụ thể:
a) Mục tiêu của chương trình đào tạo là hướng đến việc hình thành và phát triển toàn diện nhân cách cho đối tượng tiếp nhận thông tin, giúp họ nhận thức và tiếp thu những giá trị tích cực về mặt tâm lý - xã hội và đạo đức - văn hóa mà các phương tiện truyền thông đại chúng truyền tải, từ đó góp phần thúc đẩy sự hoàn thiện và phát triển nhân cách. Sinh viên cần được hướng dẫn và hỗ trợ để trưởng thành về mặt tinh thần, có đủ đức tin và trách nhiệm trong việc sử dụng các phương tiện truyền thông, góp phần xây dựng một đời sống linh mục phong phú, ý nghĩa và trách nhiệm với giáo hội và xã hội.
b) Bên cạnh việc tiếp thu kiến thức lý thuyết, sinh viên cần được cung cấp môi trường và điều kiện để thực hành, trải nghiệm thực tế với các công cụ truyền thông xã hội. Thông qua hoạt động thực tiễn, sinh viên có cơ hội nâng cao nhận thức và khả năng nhận diện, phân tích các xu hướng văn hóa, chính trị, tôn giáo và đạo đức được phản ánh trong các nội dung và chương trình truyền thông hiện nay. Đồng thời, sinh viên cũng được phát triển tư duy phản biện và khả năng đánh giá một cách toàn diện, khách quan về các ứng dụng công nghệ truyền thông tiên tiến. Để hiện thực hóa mục tiêu này, việc đầu tư hệ thống cơ sở vật chất và trang thiết bị hiện đại, đồng bộ cho các chủng viện và cơ sở đào tạo là yếu tố cốt lõi và cấp thiết.
12. Học thuyết chính thống. Chương trình đào tạo về truyền thông xã hội cần được xây dựng và triển khai trên một nền tảng giáo lý vững chắc, đảm bảo tính chính thống và an toàn. Đồng thời, cần tuyệt đối tránh sự hời hợt hay ứng biến trong phương pháp giảng dạy (xem Phụ lục I, điểm 35). Vì vậy...
a) Đối với giảng viên tham gia giảng dạy các khóa học cơ bản, việc chỉ đơn thuần sở hữu kinh nghiệm thực tiễn hay kỹ năng kỹ thuật trong lĩnh vực truyền thông đại chúng là chưa đủ, mặc dù họ có thể là những chuyên gia có trình độ chuyên môn cao. Yêu cầu bắt buộc đối với họ là phải nắm vững một cách toàn diện và sâu sắc các vấn đề liên quan đến văn hóa, kỹ thuật, cũng như các vấn đề thuộc lĩnh vực thế tục và tôn giáo. Tối ưu nhất, họ nên là những ứng viên đã được tiếp cận và hoàn thành chương trình đào tạo cấp độ hai (chuyên về lĩnh vực mục vụ).
b) Giảng viên tham gia giảng dạy ở cấp độ hai cần được trang bị kiến thức sâu rộng về những nghiên cứu tiên phong và ấn phẩm chuyên ngành của các chuyên gia hàng đầu trong lĩnh vực nghiên cứu liên văn hóa. Tuy nhiên, trong quá trình truyền tải kiến thức, giảng viên cần thể hiện tính khách quan bằng cách phân biệt rõ ràng giữa những luận điểm đã được kiểm chứng với những giả thuyết đang trong quá trình nghiên cứu. Họ cần hướng dẫn sinh viên phân biệt rõ tính chất nhất thời và tính bền vững của thông tin, giữa đặc điểm riêng biệt và tính phổ quát của vấn đề, và giữa thực tiễn khách quan và quan điểm chủ quan. Yêu cầu này đặc biệt quan trọng trong việc áp dụng các lý thuyết và đề xuất học thuật vào việc xây dựng chuẩn mực đạo đức và định hướng thực hành mục vụ cụ thể.
c) Yêu cầu bắt buộc đối với cộng đồng là phải tự trang bị kiến thức toàn diện về kho tàng giáo huấn phong phú của Giáo hội liên quan đến lĩnh vực truyền thông xã hội, thể hiện lòng tin tuyệt đối và truyền đạt một cách chính xác, trung thành. Phần Phụ lục I đã hệ thống hóa các giáo huấn này, tạo nên một nguồn tài liệu phong phú để nghiên cứu và suy ngẫm. Trong số đó, các văn kiện quan trọng mà giảng viên Công giáo trong lĩnh vực truyền thông đại chúng cần nắm vững bao gồm: Thông điệp Vigilanti Cura về nghệ thuật Điện ảnh do Đức Piô XI ban hành năm 1936; hai Bài diễn văn xoay quanh chủ đề Điện ảnh Lý tưởng được công bố năm 1955 và Thông điệp Miranda Prorsus năm 1957 của Đức Piô XII; bức thư do Quốc vụ khanh Tòa Thánh gửi tới Hội nghị Semaine Sociale de Nancy vào năm 1955; Sắc lệnh Inter Mirifica thuộc Công đồng Vatican II được ban hành năm 1963; Huấn thị Mục vụ Communio et Progressio năm 1971; các điều luật quy định về vai trò của các phương tiện truyền thông xã hội trong Bộ Giáo luật mới năm 1983; và cuối cùng là nội dung các Sứ điệp được Đức Giáo hoàng ban hành thường niên nhân dịp Ngày Thế giới Truyền thông Xã hội.
13. Những yếu tố hỗ trợ cần thiết. Thánh Bộ mong muốn sẽ có những cuốn sách và giáo trình phù hợp được biên soạn công phu và phổ biến rộng rãi tới các vùng miền và nền văn hóa khác nhau, nhằm đáp ứng nhu cầu giảng dạy và học tập truyền thông xã hội ở hai cấp độ cơ bản tại các cơ sở đào tạo linh mục. Nội dung các ấn phẩm này cần bám sát giáo huấn chính thống của Giáo hội, đồng thời được bổ sung các phần ghi chú chi tiết, hệ thống tài liệu tham khảo phong phú và được phân loại một cách khoa học, giúp người dùng dễ dàng tiếp cận với các công trình nghiên cứu tiêu biểu trên thế giới thuộc lĩnh vực này.
B) NHỮNG QUY ĐỊNH CỤ THỂ
I. CẤP ĐỘ 1 (CƠ SỞ): BỒI DƯỠNG NĂNG LỰC CHO NGƯỜI TIẾP NHẬN THÔNG TIN
14. Định hướng mục tiêu. Chương trình đào tạo nhập môn và bồi dưỡng kiến thức cơ sở về truyền thông nhắm đến việc trang bị cho người học khả năng tự nhận thức, rèn luyện tư duy phản biện sắc bén và xây dựng hệ giá trị đạo đức vững vàng. Nhờ đó, người học có thể tự bảo vệ bản thân trước những chiêu trò tác động và định hướng dư luận tinh vi của các phương tiện truyền thông đại chúng, đặc biệt là trước những luồng thông tin có nguy cơ bóp méo sự thật hoặc đi ngược lại các chuẩn mực luân lý. Sinh viên cần được trang bị hệ thống kiến thức giáo lý vững chắc và định hướng phát triển nhân cách theo các giá trị chân, thiện, mỹ. Nhờ đó, các em có thể "ý thức rõ trách nhiệm của bản thân trong việc tiếp nhận các thông tin được truyền thông cung cấp, dựa trên quyền tự do lựa chọn và khả năng tự quyết định của cá nhân... chủ động tiếp cận những nội dung tích cực; đồng thời có khả năng nhận diện và tránh xa những thông tin gây nguy hại đến đời sống tinh thần của bản thân hoặc những hành vi tiêu cực có thể tác động xấu đến cộng đồng; kiên quyết loại bỏ những yếu tố gây cản trở cho hoạt động truyền thông lành mạnh và ngăn chặn sự lan truyền của các thông tin độc hại".[20]
15. Phân công trách nhiệm trong công tác bồi dưỡng năng lực tiếp nhận thông tin cho người học. Gia đình, [21] lớp giáo lý [22] và nhà trường, [23] đặc biệt là các cơ sở giáo dục Công giáo từ bậc tiểu học đến đại học, được kỳ vọng sẽ cùng thực hiện vai trò giáo dục, bồi dưỡng cho người học những kiến thức và kỹ năng nền tảng về truyền thông một cách đồng bộ và phù hợp với từng giai đoạn phát triển. [24] Trong môi trường giáo dục chính quy, nội dung về phương tiện truyền thông đại chúng có thể được tích hợp vào chương trình giảng dạy của các môn học khác, hoặc được triển khai dưới hình thức một môn học độc lập, tối thiểu là từ bậc trung học cơ sở trở lên. Đối với các chủng sinh chưa được trang bị đầy đủ những kiến thức cơ bản về truyền thông, chủng viện sẽ có trách nhiệm bổ sung và hoàn thiện cho các chủng sinh.
Không tự giới hạn trong việc tích hợp nội dung truyền thông vào chương trình đào tạo chính khóa, chủng viện cần chủ động triển khai các hoạt động đào tạo bổ trợ như: tổ chức các khóa học, hội nghị, hội thảo chuyên đề, thiết kế các bài tập thực hành [25] và tạo diễn đàn trao đổi, thảo luận... Nhằm trang bị cho chủng sinh hệ thống nguyên tắc và chuẩn mực ứng xử phù hợp với các giá trị Kitô giáo khi tiếp cận với các phương tiện truyền thông đại chúng, cụ thể là: 1. Nâng cao năng lực tự đánh giá và lựa chọn thông tin phù hợp với bản thân cả về số lượng và chất lượng; 2. Hình thành thói quen sử dụng thời gian tiếp xúc với các phương tiện truyền thông một cách hiệu quả, có trách nhiệm và ý thức; 3. Phát triển năng lực tư duy phản biện, phê phán đối với các thông điệp, các hệ giá trị văn hóa, tôn giáo (được thể hiện trực tiếp hoặc gián tiếp) cũng như những nội dung bị các chương trình truyền thông cố tình bỏ qua, trên cơ sở bám sát lộ trình phát triển tâm lý và nhận thức của chủng sinh..
16. Phát triển năng lực cảm thụ văn hóa. Nhằm giải mã chính xác “ngôn ngữ” của các phương tiện truyền thông, chủng sinh cần được trang bị những kiến thức cơ bản về kỹ thuật của từng loại hình. Bên cạnh đó, việc nâng cao nhận thức cho chủng sinh về các tác động của các cấu trúc kinh tế, chính trị, tư tưởng đến hoạt động sản xuất, phổ biến và tiếp nhận thông tin của truyền thông đại chúng trong các bối cảnh văn hóa và quốc gia khác nhau cũng là một yêu cầu cấp thiết. [26] Song song với đó, việc bồi dưỡng năng lực cảm thụ văn hóa - thẩm mỹ và khơi gợi cho chủng sinh niềm yêu thích đối với các hình thức nghệ thuật và truyền thông khác như: lịch sử, triết học, văn học, kịch nghệ, hội họa, âm nhạc... là một nhiệm vụ quan trọng trong quá trình đào tạo chủng sinh. Trên cơ sở đó, chủng sinh có thể tự mình so sánh, đối chiếu với những nội dung được “trường học song song” là các phương tiện truyền thông đại chúng truyền tải. Sự hòa quyện giữa kiến thức và năng lực cảm thụ văn hóa - thẩm mỹ sẽ giúp chủng sinh hình thành một cách tự nhiên khả năng nhận diện và loại bỏ những chương trình có nội dung nghèo nàn về mặt văn hóa hoặc trái với các chuẩn mực đạo đức. [27] Rõ ràng, một nền tảng triết học vững chắc sẽ là hành trang vô cùng quý giá cho các chủng sinh trên hành trình thực thi sứ mạng loan báo Tin Mừng.
17. Bồi dưỡng đời sống tâm linh và khía cạnh luân lý. Khía cạnh tâm linh và luân lý giữ vai trò nền tảng trong việc đào tạo các chủng sinh, hướng đến mục tiêu kiến tạo một thế hệ mục tử tương lai có đời sống nội tâm phong phú, vững vàng trong đức tin và trở nên chứng nhân Tin Mừng sống động, đặc biệt trong bối cảnh thế giới công nghệ số với sự hiện diện mạnh mẽ của các phương tiện truyền thông đại chúng. Trong quá trình đồng hành với các chủng sinh...
a) cần tránh khuynh hướng giáo điều, áp đặt khi triển khai các nội dung liên quan đến vấn đề luân lý trong môi trường truyền thông, đồng thời không nên đơn giản hóa vấn đề, chỉ tập trung vào phạm trù đạo đức giới, mà cần mở rộng bàn luận, phân tích trên nhiều chiều kích khác nhau, trong đó có những vấn đề nhạy cảm, đặc thù liên quan đến đời sống độc thân của người linh mục;
b) cần đặc biệt đề cao những giá trị tích cực, định hướng cho chủng sinh biết trân trọng và phát huy những yếu tố lành mạnh, có tính kiến tạo trong môi trường truyền thông thay vì chỉ chú trọng vào việc phòng tránh, ngăn chặn những nguy cơ, tác hại;
c) khi phân định các giá trị luân lý, cần hướng các chủng sinh đến một tầm nhìn bao quát, không chỉ nhận thức rõ ràng những tác động đối với đời sống nội tâm cá nhân mà còn ý thức sâu sắc về ý nghĩa và hệ quả xã hội từ chính những lựa chọn của mình. Đồng thời, các chủng sinh cũng cần phải tuân thủ nghiêm túc những “phán đoán luân lý” do các cấp thẩm quyền có liên quan ban hành.[28]
18. Hướng đến sự tương tác hiệu quả với môi trường truyền thông. Bên cạnh việc trang bị kiến thức giáo lý, thần học, các chủng sinh cũng cần được đồng hành, hướng dẫn để có thể thích ứng và tương tác hiệu quả với môi trường truyền thông hiện đại, nơi phản ánh sinh động bức tranh xã hội với muôn màu sắc của đời sống thực tiễn. Đồng thời, cần chú trọng rèn luyện, bồi dưỡng cho các chủng sinh phẩm chất của người mục tử “trưởng thành, toàn diện, có khả năng kiến tạo các mối tương quan xã hội cách tích cực, chủ động, cởi mở, chân thành, tránh thái độ nghi ngại, dè dặt thái quá nhưng cũng không ngây thơ, cả tin” [29]. Nên khuyến khích chủng sinh chủ động tiếp cận, phân tích, đánh giá thông tin thời sự từ nhiều nguồn khác nhau, cá nhân hoặc theo nhóm:
a) luôn lưu tâm đến sự khác biệt về năng lực nhận thức, trình độ văn hóa, cũng như nền tảng đạo đức của mỗi chủng sinh.
b) cần định hướng cho chủng sinh biết cách khai thác và sử dụng các phương tiện truyền thông một cách hiệu quả, biến chúng thành kênh tiếp cận tri thức, nâng cao hiểu biết, mở rộng giao lưu văn hóa trong tinh thần phục vụ sứ mạng loan báo Tin Mừng. Nên xây dựng môi trường để chủng sinh được rèn luyện khả năng nhận định, phân tích và đánh giá phê bình nội dung trên các phương tiện truyền thông, đặc biệt với những vấn đề nhạy cảm, dễ gây tranh cãi thuộc lĩnh vực tôn giáo, đạo đức và văn hóa; c) đồng thời, luôn ý thức và tuân thủ các nguyên tắc về sự khôn ngoan, lòng mến Chúa và tinh thần khổ chế mà Hội Thánh luôn khuyến khích đối với những ai chuẩn bị hiến thân phục vụ Chúa. [30]
19. Kiến tạo sự cân bằng trong bối cảnh mới. Trong bối cảnh xã hội hiện đại với sự phát triển như vũ bão của công nghệ truyền thông, việc tiếp cận và sử dụng các phương tiện truyền thông một cách thái quá hoặc thiếu chọn lọc có thể gây ra những ảnh hưởng tiêu cực đến đời sống tinh thần, suy nghĩ và hành vi của con người. Do đó, việc đào tạo về truyền thông cho chủng sinh cần được xây dựng dựa trên một chiến lược bài bản, khoa học nhằm hướng đến sự phát triển toàn diện về nhân cách, giúp họ cân bằng giữa việc tiếp nhận thông tin và nuôi dưỡng đời sống nội tâm. Bên cạnh việc quan tâm đến nội dung các chương trình truyền thông phải bảo đảm tính giáo dục, tính nghệ thuật và phù hợp với đạo đức xã hội, cần chú trọng đến cách thức truyền tải thông điệp một cách sáng tạo, lôi cuốn nhưng không lạm dụng kỹ xảo, hình thức bên ngoài.
Nhằm giúp chủng sinh sử dụng thời gian một cách hiệu quả, tránh sa đà vào những thông tin hời hợt, thiếu chọn lọc trên các phương tiện truyền thông, cần đặc biệt quan tâm bồi dưỡng đời sống nội tâm cho các ứng sinh linh mục thông qua việc tạo thói quen đọc sách, nghiên cứu, rèn luyện tinh thần tĩnh lặng và suy gẫm. Đồng thời, cần tạo điều kiện thuận lợi để chủng sinh được giao lưu, chia sẻ và cầu nguyện cộng đồng, qua đó giúp họ xây dựng mối tương quan lành mạnh, tránh những hệ lụy tiêu cực từ việc tiếp nhận thông tin một chiều. Đây chính là cách thức hiệu quả để giúp chủng sinh nhận thức sâu sắc hơn về những giá trị chân chính của đời dâng hiến, về ý nghĩa của lòng vâng phục, tinh thần sống nghèo khó theo tinh thần Tin Mừng [31] mà nền văn hóa thực dụng, tiêu thụ ngày nay đang có xu hướng lãng quên.
II. CẤP ĐỘ THỨ HAI: ĐÀO TẠO MỤC VỤ
20. Ba mục tiêu. Chương trình đào tạo về truyền thông xã hội ở cấp độ hai, mang tính mục vụ đặc thù, được áp dụng cho tất cả chủng sinh trong suốt giai đoạn học triết và thần học. Chương trình nhắm đến ba mục tiêu chính:
a) Trang bị cho chủng sinh kiến thức và kỹ năng sử dụng hiệu quả các phương tiện truyền thông xã hội (và rộng hơn là các phương thức thể hiện và truyền thông ) trong hoạt động mục vụ của mình, tùy theo điều kiện thực tế cho phép;[32]
b) Giúp chủng sinh có khả năng hướng dẫn và đồng hành với các đối tượng khác (như giáo dân, giáo lý viên, người hoạt động trong lĩnh vực truyền thông...) thông qua các hình thức như giảng dạy, dạy giáo lý, giảng lễ...; đồng thời có thể đảm nhận vai trò cố vấn, cha giải tội, linh hướng...;
c) Quan trọng hơn hết, là hình thành cho chủng sinh một tâm thế sẵn sàng thích nghi với những thay đổi trong hoạt động mục vụ, bao gồm cả việc hội nhập văn hóa đức tin và đời sống Kitô giáo vào các Giáo hội địa phương khác nhau, [33] trong bối cảnh thế giới ngày càng chịu ảnh hưởng sâu sắc của các phương tiện truyền thông đại chúng, [34] viễn thông và tin học. [35]
21. Huấn luyện thực hành. Chức năng bất khả thay thế của tác vụ rao giảng Lời Chúa trong sứ vụ linh mục đòi hỏi mỗi ứng sinh linh mục phải được huấn luyện một cách toàn diện về cả lý thuyết lẫn thực hành nghệ thuật hùng biện. Là một hợp phần thiết yếu trong tiến trình đào tạo về truyền thông xã hội, các chủng sinh cũng cần được trang bị kiến thức về cơ chế vận hành của từng phương tiện truyền thông xã hội (hay còn được gọi là "ngôn ngữ" đặc thù của mỗi loại hình), mối tương quan mật thiết giữa phương tiện truyền thông với "thông điệp" hướng đến truyền tải, cũng như khả năng thích ứng với các đặc điểm tiếp nhận thông tin của các "đối tượng" mục tiêu khác nhau.
Nhằm mục tiêu giúp chủng sinh nắm vững lý thuyết và ứng dụng thành thạo kỹ năng truyền thông, chương trình đào tạo sẽ kết hợp giữa phương pháp giảng dạy lý thuyết và thực hành bài bản. Các bài học phương pháp luận được thiết kế chuyên sâu, kết hợp với các buổi phân tích, đánh giá phê bình các chương trình và ấn phẩm truyền thông điển hình.
Chủng sinh sẽ được hướng dẫn thực hành trực tiếp với các thiết bị truyền thông hiện đại, bao gồm: kỹ năng sử dụng micrô, máy quay phim, máy quay truyền hình; kỹ năng cử hành nghi lễ; kỹ năng phỏng vấn; kỹ năng viết tin, bài cho báo chí, đài phát thanh và truyền hình; kỹ năng xây dựng nội dung quảng cáo... Các buổi thảo luận, góp ý sau mỗi hoạt động thực hành là cơ hội để chủng sinh tự đánh giá và hoàn thiện kỹ năng bản thân.
Khuyến khích chủng sinh tham gia thực hành báo chí trên các ấn phẩm nội bộ của chủng viện, cũng như cộng tác với các cơ quan báo chí tôn giáo và báo chí thế tục. Tận dụng tối đa các điều kiện cơ sở vật chất hiện đại như hệ thống truyền hình mạch kín (nếu có) phục vụ cho hoạt động thực hành của chủng sinh. Đặc biệt chú trọng hỗ trợ phát triển các ấn phẩm của chủng viện, bởi đây là hoạt động thiết thực giúp chủng sinh phát huy năng lực sáng tạo.
22. Giảng dạy và hỗ trợ mục vụ. Trong quá trình đào tạo thực hành về truyền thông, cần lưu ý đến các loại hình nghệ thuật và kỹ thuật truyền đạt bổ trợ, đặc biệt là vai trò của sân khấu. Việc tạo điều kiện cho chủng sinh tiếp cận và trải nghiệm nghệ thuật sân khấu được xem là hoạt động cần thiết. Chủng sinh nên được khuyến khích thưởng thức các tác phẩm sân khấu trên các phương tiện truyền thông [36], đồng thời được tạo cơ hội tham gia dàn dựng, biểu diễn các vở kịch ngay tại chủng viện. Hoạt động này góp phần nâng cao khả năng truyền đạt trước đám đông và kỹ năng làm việc nhóm cho chủng sinh.
Bên cạnh đó, cần đặc biệt quan tâm đến các phương tiện truyền thông nhóm, đa phương tiện, phương tiện truyền thông mini và các phương tiện nghe nhìn khác như: đĩa, băng cassette, ảnh chiếu, phim ngắn... Với ưu điểm là chi phí thấp và dễ sử dụng, những phương tiện này tỏ ra đặc biệt hiệu quả trong hoạt động giảng dạy và mục vụ, đặc biệt là trong công tác giáo lý và sinh hoạt nhóm.
23. Con người toàn diện. Để đạt được hai mục tiêu còn lại của chương trình đào tạo mục vụ, cần lưu ý đến mối liên hệ giữa truyền thông và các khía cạnh văn hóa - xã hội như: công nghệ, viễn thông, nhân học văn hóa, xã hội học, kinh tế học, ký hiệu học, ngôn ngữ học, tâm lý học, sư phạm,... Cần xem xét những ảnh hưởng của các phương tiện truyền thông đến đời sống tôn giáo, luân lý và mục vụ. Luôn tâm niệm đến "con người toàn diện", người chịu tác động của truyền thông trên cả phương diện cá nhân và xã hội: trước hết là một con người, sau là một tín hữu và Kitô hữu. Giáo hội xác định việc đồng hành và nâng đỡ "con người toàn diện", đặc biệt trong bối cảnh hiện nay, là một phần thiết yếu trong sứ mạng mục vụ.[37] Nhiệm vụ của người linh mục là truyền tải thông điệp cứu độ một cách dễ hiểu và khích lệ con người sống theo Tin Mừng.
24. Phát triển kỹ năng truyền thông. Chương trình đào tạo về sử dụng công cụ truyền thông sẽ hiệu quả hơn nếu chủng viện tạo được môi trường truyền thông cởi mở, tích cực giữa các chủng sinh với nhau và với giáo sư. Để làm được điều này, cần: • Rèn luyện cho chủng sinh sự tĩnh lặng nội tâm, điều kiện cần thiết cho đời sống tâm linh và trí tuệ, giúp loại bỏ ảnh hưởng tiêu cực từ sự ồn ào của truyền thông đại chúng. • Tăng cường giao tiếp trực tiếp, trao đổi nhóm, chú trọng rèn luyện ngôn ngữ chính xác, diễn đạt rõ ràng, lập luận logic. Đây là cách khắc phục sự thụ động thường thấy khi tiếp cận thông tin một chiều từ truyền thông đại chúng. • Về phía giáo sư, khi giảng dạy cần diễn đạt rõ ràng, dễ hiểu, sử dụng ngôn ngữ hiện đại nhưng vẫn đảm bảo tính chính xác khoa học. [38] • Tất cả mọi người, không phân biệt, hãy cùng nhau hướng đến mục tiêu "hiệp thông" - vốn là khởi nguồn và cùng đích của mọi truyền thông theo tinh thần Kitô giáo. [39]
25. Tài liệu hỗ trợ và nguồn tham khảo. Các tác phẩm của những tác giả uy tín nên được cung cấp cho chủng sinh, đồng thời họ cũng nên được tiếp cận với các bản tin và tạp chí liên quan để có thể cập nhật những tư tưởng và phát triển kỹ thuật mới nhất trong lĩnh vực truyền thông. Chủng sinh cần được hướng dẫn thảo luận phản biện về các luận điểm và đề xuất được đưa ra trong các tài liệu này, đặc biệt khi chúng có thể áp dụng cho hành vi đạo đức của tín hữu và con người nói chung, cũng như cho hoạt động mục vụ. Hơn nữa, nên tận dụng sự hỗ trợ chuyên môn từ bên ngoài, và tạo điều kiện cho chủng sinh, chẳng hạn như trong "Ngày Truyền Thông Xã Hội" thường niên do chính họ chuẩn bị và cử hành [40], có những buổi gặp gỡ thường xuyên với những người làm việc trong các Tổ chức Giáo hội về truyền thông đại chúng: cấp giáo phận, quốc gia và thậm chí quốc tế (cụ thể là UCIP cho ấn phẩm, OCIC cho Điện ảnh, UNDA cho phát thanh và truyền hình), cũng như với những người hoạt động trong các lĩnh vực này tại nơi làm việc của họ.
26. Chương trình và đánh giá. Việc đào tạo mục vụ về truyền thông có thể được lồng ghép vào các môn học khác như nhân văn, xã hội học, triết học và thần học một cách linh hoạt, phù hợp với điều kiện thực tế. Tuy nhiên, truyền thông không phải là môn học phụ trợ hay tùy chọn, mà cần được tích hợp bài bản vào chương trình chính khóa của triết học và thần học, với đánh giá kết quả học tập rõ ràng.
III. CẤP ĐỘ BA: ĐÀO TẠO CHUYÊN SÂU
27. Ứng viên. Những ai đã và đang theo đuổi lĩnh vực truyền thông, đồng thời thể hiện năng lực và niềm đam mê với công việc này, không nên chỉ dừng lại ở chương trình đào tạo mục vụ chung, mà cần được trang bị kiến thức chuyên sâu hơn.[41] Các vị hữu trách cần chủ động phát hiện, hỗ trợ và theo dõi sự phát triển của những chủng sinh này.
Đào tạo chuyên sâu không chỉ dành riêng cho những ai muốn theo đuổi báo chí, điện ảnh, phát thanh, truyền hình, mà còn cần thiết cho cả những người muốn giảng dạy, quản lý hoặc cộng tác trong các cơ quan truyền thông của Giáo hội từ cấp giáo phận đến quốc gia
28. Cơ sở đào tạo. Nhằm đáp ứng nhu cầu đào tạo chuyên sâu, nhiều trung tâm đã được thành lập ở các khu vực ngôn ngữ khác nhau, nhờ sự đóng góp của các tổ chức Giáo hội và cá nhân tín hữu. Các trung tâm này cung cấp các khóa học toàn phần hoặc bán phần về kỹ thuật truyền thông xã hội.
Tuy nhiên, ở những nơi chưa có điều kiện thành lập trung tâm hoặc các học viện hiện có của Giáo hội chưa đáp ứng đủ về cơ sở vật chất và đội ngũ giảng viên, chủng sinh và linh mục có thể linh động tìm kiếm các học viện công lập uy tín khác để được đào tạo bài bản, chuyên nghiệp.[42]
Bộ Truyền Thông mong muốn rằng một thế hệ linh mục được đào tạo bài bản về truyền thông sẽ góp phần giúp "tất cả những người thiện chí... sử dụng các phương tiện truyền thông xã hội một cách hiệu quả vì lợi ích của nhân loại, vì tương lai của nhân loại ngày càng phụ thuộc vào việc sử dụng đúng đắn (các phương tiện này)", đặc biệt là trong bội cảnh "Dân Chúa, với tầm nhìn hướng đến tương lai, tin tưởng và yêu mến vô vàn những điều kỳ diệu được hứa ban trong kỷ nguyên không gian" của công nghệ thông tin.[43]
PHỤ LỤC I
ĐÀO TẠO LINH MỤC VỀ TRUYỀN THÔNG
TRONG CÁC VĂN KIỆN CỦA GIÁO HỘI
(Theo thứ tự thời gian)
1. PIUS XI, Thông điệp Ad catholici sacerdoti (20/12/1935: AAS 28 [1936], 5), về việc nâng cao trình độ văn hóa cho linh mục:
"[...] Người linh mục, ngay cả khi bận rộn với công việc mục vụ, và luôn hướng đến việc thực thi chúng cách tốt nhất, cần liên tục tra dồi và đào sâu kiến thức thần học, bổ sung thêm sự uyên bác về giáo lý vào nền tảng đã có từ chủng viện. Nhờ đó, linh mục sẽ trở thành nhà giáo dục và người đồng hành linh hồn hữu hiệu hơn [...].
Để thi hành sứ vụ cách xứng đáng và tạo được lòng tin, sự kính trọng từ cộng đoàn, yếu tố quan trọng giúp công việc mục vụ đạt hiệu quả, người linh mục cần trang bị vốn kiến thức sâu rộng, bao gồm cả những kiến thức ngoài lĩnh vực tôn giáo mà người có học thức thời đại thường có [...]. Giáo sĩ ngày nay không nên thỏa mãn với những gì được xem là đủ trong quá khứ, nhưng cần ý thức được việc trau dồi tri thức để đạt đến trình độ tương xứng với xã hội hiện đại."
2. ỦY BAN GIÁO HOÀNG VỀ ĐIỆN ẢNH, Thư của Đức ông Martin J. O'Connor gửi các giám mục Ý (1/6/1953) về việc xây dựng rạp chiếu phim tại giáo xứ:
"4. [...] Nhiều linh mục, với mong muốn bảo vệ cộng đoàn khỏi những ảnh hưởng tiêu cực của nền điện ảnh thiếu lành mạnh, đã nỗ lực xây dựng các rạp chiếu phim ngay tại giáo xứ hoặc trung tâm sinh hoạt cộng đồng. Tại đây, mọi người, đặc biệt là giới trẻ, có thể thưởng thức những bộ phim bổ ích, mang tính giáo dục.
5. Những sáng kiến này cho thấy sự quan tâm của các giám mục và linh mục đối với điện ảnh, một loại hình giải trí ngày càng phổ biến, không chỉ ở thành thị mà còn ở nông thôn.
20 [...] Ủy ban giáo phận cần định hướng dư luận, nâng cao nhận thức của người xem phim bằng cách cổ vũ lối sống đạo đức Kitô giáo. Việc thành lập các câu lạc bộ hoặc diễn đàn điện ảnh là một cách làm hiệu quả. Các hoạt động của diễn đàn cần tuân thủ các nguyên tắc đạo đức, quy định của Giáo hội trong việc lựa chọn phim và tổ chức thảo luận.
25 [...] Cần tổ chức chu đáo "Ngày Điện ảnh Công giáo", nơi các linh mục sẽ hướng dẫn giáo dân về trách nhiệm của mình trong lĩnh vực này."
3. PIUS XII, Huấn từ I rapidi progressi, gửi các giám mục Ý, về truyền hình (1/1/1954: AAS 46 [1954], 18):
"24. [...]hơn bao giờ hết, việc hình thành nơi các tín hữu một lương tâm ngay thẳng về bổn phận của người Kitô hữu liên quan đến việc sử dụng truyền hình là điều cần thiết và cấp bách: một lương tâm, tức là, sẽ cảnh báo họ về những nguy hiểm có thể xảy ra và giúp họ luôn chú ý đến những phán đoán của thẩm quyền giáo hội liên quan đến vấn đề luân lý của những hình ảnh được truyền tải qua truyền hình [...]. Do đó, Chúng tôi không thể không hết lời ca ngợi như những tông đồ của sự thiện hảo tất cả những ai, theo khả năng của mình, sẽ giúp đỡ các con trong công việc hữu ích này."
4. PIUS XII, trong Thông điệp Sacra virginitas (25/3/1954: AAS 46 [1954], 161), đã dành phần thứ ba để nói về điện ảnh. Ngài khẳng định rằng giữ gìn đức khiết tịnh trọn hảo là một điều rất khó khăn, đồng thời chỉ ra những cạm bẫy cũng như cách thức để vượt qua.
"54. [...]Có ý kiến cho rằng người Kitô hữu, đặc biệt là các linh mục, không nên sống tách biệt với thế giới mà cần phải hòa nhập vào đời sống xã hội. Để rèn luyện đức khiết tịnh, họ cần phải đối diện với những cám dỗ và thử thách. Theo đó, các chủng sinh nên được tiếp xúc với mọi mặt của đời sống, kể cả những điều tiêu cực, để học cách bình tĩnh trước mọi tình huống và tôi luyện bản lĩnh. Họ cho rằng nên để các chủng sinh tự do xem phim ảnh, kể cả những phim bị Giáo hội cấm, đọc các loại tạp chí, kể cả những ấn phẩm khiêu dâm [...]. Họ lập luận rằng giới trẻ ngày nay đã quen với những loại hình giải trí như vậy, nên muốn đồng hành với họ thì phải hiểu và chấp nhận. Tuy nhiên, cách giáo dục chủng sinh như vậy là hoàn toàn sai lầm và nguy hiểm, bởi nó không thể giúp họ rèn luyện nhân đức và sống thánh thiện như ơn gọi của mình."
5. THÁNH BỘ CÔNG ĐỒNG, Thư của Bộ trưởng, Đức Hồng y Pietro Ciriaci (16/6/1956), gửi Đại hội Antwerp (1-2/8/1956) với chủ đề "Giáo lý cho thời đại chúng ta":
"2. [...] Trong bối cảnh thế giới đang thay đổi chóng mặt, nơi công nghệ hiện đại tạo ra những ảnh hưởng sâu rộng, việc xem xét lại những nền tảng của giáo dục tôn giáo là vô cùng quan trọng và cấp bách. Chúng ta cần xác định đâu là những yếu tố cốt lõi không thể thay đổi, đồng thời linh hoạt điều chỉnh phương pháp giáo dục cho phù hợp với nhu cầu của thời đại, của từng đối tượng cụ thể, của các quốc gia kém phát triển, cũng như tâm lý con người ngày nay."
6. PIUS XII, Bài giảng về việc cập nhật giáo huấn của Giáo hội (14/9/1956: AAS 48 [1956], 707):
"25. [...] Các linh mục, với trách nhiệm chăm sóc linh hồn, cần phải tìm hiểu những gì khoa học, nghệ thuật và kỹ thuật hiện đại nói về con người, về đời sống tinh thần và luân lý của họ: điều gì phù hợp với đức tin, điều gì trái với đức tin, điều gì trung dung [...]. Ngày nay, việc "cập nhật mục vụ" - hay nói cách khác là thích nghi - trong việc ra giảng Tin Mừng của Giáo hội (thông qua Huấn quyền) là vô cùng cần thiết, cũng như việc "cập nhật mục vụ" trong các ngành khoa học hiện đại. Hơn nữa, chính các ngành khoa học hiện đại (trong phạm vi liên quan đến đức tin và luân lý) cũng cần được "định hướng" theo giáo huấn chính thức của Giáo hội [...]."
7. Trong Thông điệp Miranda prorsus (8/9/1957: AAS 49 [1957], 765), Đức Giáo hoàng Pius XII đã nhấn mạnh tầm quan trọng của việc chuẩn bị cho người tiếp nhận thông tin từ đài phát thanh và truyền hình (đoạn 58-59, 61-62). Ngài cũng kêu gọi hàng giáo sĩ cần được trang bị kiến thức và kỹ năng để sử dụng hiệu quả đài phát thanh và truyền hình (đoạn 127-128 và 147), cũng như các phương tiện truyền thông đại chúng khác (đoạn 153 và 154):
"58. [...] Mặc dù điện ảnh, đài phát thanh và truyền hình đều là những hình thức trình diễn đã xuất hiện từ lâu, nhưng ngày nay, chúng đã phát triển thành những phương tiện truyền thông mới với khả năng tiếp cận đến đông đảo người dân thuộc mọi tầng lớp, lứa tuổi và trình độ văn hóa."
59. Để những hình thức giải trí này thực sự hữu ích, điều quan trọng là người xem cần được trang bị kiến thức và định hướng đúng đắn. Họ cần được hướng dẫn để hiểu rõ bản chất của từng loại hình nghệ thuật, đồng thời có được lương tri sáng suốt để phân biệt đúng sai, từ đó có cái nhìn chín chắn và khả năng đánh giá khách quan về những nội dung được trình chiếu, thay vì bị cuốn theo một cách thụ động.
61 [...] Nhiều chương trình đã được triển khai nhằm giúp thanh thiếu niên và người lớn có đủ nhận thức và kỹ năng để đánh giá một cách toàn diện về lợi ích và tác hại của những loại hình giải trí này, từ đó có những lựa chọn phù hợp [...].
62. Chúng tôi hoàn toàn ủng hộ và hoan nghênh những chương trình này [...] với điều kiện chúng phải dựa trên những nguyên tắc sư phạm đúng đắn và phù hợp với sự phát triển tâm sinh lý của người học. Chúng tôi mong muốn những chương trình này sẽ được triển khai rộng rãi trong các trường học, các hội đoàn Công giáo Tiến hành và các giáo xứ.
127. Việc truyền tải các nghi thức phụng vụ, giáo lý và các sự kiện của Giáo hội một cách trang trọng và thu hút qua sóng phát thanh đòi hỏi người thực hiện phải có năng lực chuyên môn và kỹ năng truyền đạt tốt. Do đó, điều quan trọng là phải đào tạo bài bản cho cả linh mục [...] và giáo dân được giao phó nhiệm vụ quan trọng này.
128. Để đạt được mục tiêu này [...], chúng ta nên tổ chức các khóa đào tạo về kỹ thuật phát thanh chuyên nghiệp ở những quốc gia có điều kiện về cơ sở vật chất và kinh nghiệm. Qua đó, các học viên từ các quốc gia khác có thể tiếp thu những kỹ năng cần thiết để sản xuất các chương trình tôn giáo trên đài phát thanh đạt chất lượng cao về cả nội dung lẫn hình thức.
147. Chúng tôi kêu gọi các giáo sĩ, tu sĩ nam nữ hãy quan tâm và tích cực tham gia vào lĩnh vực truyền hình. Hãy tận dụng những thành tựu của khoa học kỹ thuật và những kinh nghiệm quý báu đã có để góp phần phát triển loại hình truyền thông mới mẻ và đầy tiềm năng này, phục vụ cho việc loan báo Tin Mừng.
153. Hỡi các Vị Huynh Đáng Kính, Chúng tôi không thể kết thúc Bức Thư này [...] mà không nhắc nhở các Vị nhớ đến tầm quan trọng của chức năng được trao phó cho linh mục trong việc khuyến khích và làm chủ những phát minh ảnh hưởng đến truyền thông, không chỉ trong các lĩnh vực khác của sứ vụ tông đồ, mà đặc biệt là trong công việc thiết yếu này của Giáo Hội.
154. Linh mục phải có kiến thức vững vàng về tất cả các vấn đề mà các linh hồn Kitô hữu phải đối mặt liên quan đến điện ảnh, đài phát thanh và truyền hình. Như Chúng tôi đã nói trong một bài diễn văn với những người tham gia Tuần lễ Nghiên cứu về việc cập nhật thực hành mục vụ ở Ý vào thời điểm hiện tại, 'Linh mục với nhiệm vụ chăm sóc các linh hồn có thể và phải biết khoa học, nghệ thuật và kỹ thuật hiện đại khẳng định điều gì bất cứ khi nào chúng động chạm đến cùng đích của con người và đời sống luân lý và tôn giáo của họ'. Hãy để linh mục học cách sử dụng những phương tiện hỗ trợ này một cách chính xác thường xuyên như khi nào, theo phán đoán thận trọng của thẩm quyền giáo hội, bản chất và thừa vụ được giao phó cho linh mục và nhu cầu hỗ trợ ngày càng nhiều linh hồn, đòi hỏi điều đó.
Cuối cùng, nếu những loại hình nghệ thuật này được linh mục sử dụng một cách có lợi, thì sự khôn ngoan, tự chủ và tinh thần trách nhiệm của ngài sẽ tỏa sáng như một tấm gương cho mọi Kitô hữu.
8. Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII, trong bài Diễn văn cho hàng giáo sĩ Rôma nhân dịp công bố Công đồng Rôma lần thứ nhất (24/11/1960), đã nói về tinh thần hãm mình của linh mục như sau:
"34. “Này chúng con, chúng con đã bỏ mọi sự mà theo Thầy” (Mc 10,28). Mọi sự chúng ta từ bỏ vì Chúa Kitô, tất nhiên cũng bao gồm cả việc từ bỏ những thú vui như đọc sách báo, tạp chí, xem phim ảnh, giải trí, nếu những điều đó đi ngược lại với chân lý và tinh thần của Chúa Kitô, với giáo huấn của Giáo Hội, hay với những lời kêu gọi của Công đồng."
9. CÔNG ĐỒNG RÔMA LẦN THỨ NHẤT (29/06/1960) đã đưa ra những quy định liên quan đến "các loại hình giải trí" như sau:
"704.2. Giáo sĩ cần được hướng dẫn về "các loại hình giải trí" và trách nhiệm của mình trong việc truyền giáo liên quan đến lĩnh vực này, dựa trên tinh thần của các Giáo huấn do Đức Giáo Hoàng ban hành."
Về việc sử dụng rạp chiếu phim, Công đồng cũng nhấn mạnh:
"693.1. Các rạp chiếu phim được Giáo Hội cho phép hoạt động có mục đích bảo vệ các tín hữu, đặc biệt là giới trẻ, khỏi những tác động tiêu cực của phim ảnh xấu, đồng thời khai thác những bộ phim có giá trị giáo dục."
- 2. Ban quản lý các rạp chiếu phim này cần phải có tinh thần tông đồ, áp dụng các tiêu chí nghiêm ngặt trong việc lựa chọn phim, luôn ý thức rằng đây là rạp chiếu phim Công giáo đã được Giáo Hội cho phép hoạt động.]
Về việc giáo dục nhận thức cho các tín hữu:
"703.1. Giáo sĩ [...] và các hội đoàn, tổ chức tông đồ cần nỗ lực giáo dục lương tâm cho các tín hữu về việc sử dụng các phương tiện truyền thông hiện đại. Để đạt được mục tiêu này, nên tổ chức các buổi tuyên truyền, các khóa giảng thuyết, kết thúc bằng một nghi thức phụng vụ và lời tuyên hứa công khai tẩy chay các loại hình giải trí xấu."
10. CÔNG ĐỒNG VATICAN II, trong Hiến chế về Phụng vụ Thánh Sacrosanctum Concilium (04/12/1963), đã đề cập đến việc truyền tải các nghi thức thánh qua đài phát thanh và truyền hình như sau:
"20. Việc truyền tải các nghi thức thánh, đặc biệt là Thánh lễ, qua đài phát thanh và truyền hình cần được thực hiện cách trang trọng và tế nhị. Cần có người phù hợp do các vị Giám mục chỉ định để đảm nhận và chịu trách nhiệm cho công việc này."
11. CÔNG ĐỒNG VATICAN II, trong Sắc lệnh Inter Mirifica về các phương tiện truyền thông xã hội (04/12/1963), đã xác định các nhiệm vụ mục vụ của Giáo Hội liên quan đến việc sử dụng các phương tiện truyền thông đại chúng (số 3 và 13); đồng thời đề cập đến việc chuẩn bị về lý thuyết và thực hành cho người tiếp nhận (số 9 và 16) cũng như người sử dụng các phương tiện này cho mục đích mục vụ (số 15); cuối cùng là vấn đề Ngày Truyền thông Thế giới - một dịp để nhắc nhở các tín hữu về tầm quan trọng của truyền thông (số 18):
"3. [...] Giáo hội Công giáo được Chúa Kitô thiết lập để mang ơn cứu độ đến cho mọi người. Vì thế, Giáo hội có nghĩa vụ loan báo Tin Mừng và tin rằng việc sử dụng các phương tiện truyền thông xã hội là một cách thức để thực hiện sứ mạng này, đồng thời dạy mọi người cách sử dụng chúng một cách đúng đắn. Giáo hội có quyền sử dụng và sở hữu bất kỳ phương tiện truyền thông nào cần thiết hoặc hữu ích cho việc đào tạo Kitô hữu và hoạt động mục vụ. Các mục tử có nhiệm vụ hướng dẫn các tín hữu sử dụng các phương tiện này để mang lại lợi ích cho bản thân và cho mọi người. Về phần mình, các giáo dân được mời gọi thổi hồn Kit giáo và tinh thần nhân bản vào các phương tiện truyền thông, đảm bảo rằng chúng phục vụ cho con người theo kế hoạch của Thiên Chúa."
13. Mọi thành phần trong Giáo hội cần chung tay để đưa các phương tiện truyền thông vào phục vụ cho các hoạt động tông đồ một cách kịp thời và hiệu quả, đặc biệt là ở những nơi cần thiết phải thúc đẩy sự tiến bộ về đạo đức và đức tin. Các mục tử cần đặc biệt quan tâm đến lĩnh vực này vì nó gắn liền với sứ mạng loan báo Tin Mừng. Giáo dân hoạt động trong lĩnh vực truyền thông cần nỗ lực làm chứng cho Chúa Kitô bằng cách thực hiện công việc cách chuyên nghiệp, với tinh thần tông đồ, và cộng tác vào các hoạt động mục vụ của Giáo hội bằng khả năng của mình, dù là về kỹ thuật, kinh tế, văn hóa hay nghệ thuật.
9. Những người tiếp nhận thông tin từ các phương tiện truyền thông - độc giả, khán giả, thính giả - đều có quyền tự do lựa chọn. Tuy nhiên, quyền tự do đi kèm với trách nhiệm. Việc lựa chọn thông tin một cách có ý thức và đúng đắn sẽ giúp họ tiếp cận với những giá trị tốt đẹp về đạo đức, văn hóa và nghệ thuật. Ngược lại, họ cần tránh xa những nội dung có hại cho tinh thần, gây ảnh hưởng xấu hoặc cản trở việc truyền tải những điều tốt đẹp. Điều này đặc biệt quan trọng khi những kẻ xấu lợi dụng phương tiện truyền thông để trục lợi. Là người sử dụng các phương tiện truyền thông, chúng ta cần tuân thủ luật luân lý bằng cách cập nhật kịp thời những đánh giá từ các chuyên gia và cơ quan có thẩm quyền, đồng thời lắng nghe tiếng nói của lương tâm để có những lựa chọn đúng đắn. Chúng ta cũng cần rèn luyện lương tâm nhạy bén để phân biệt điều hay lẽ phải, tránh xa những ảnh hưởng xấu và biết tận dụng những giá trị tốt đẹp từ các phương tiện truyền thông.
16. Những người tiếp nhận các phương tiện truyền thông xã hội khác nhau về lứa tuổi và văn hóa. Do đó, cần phải có sự hướng dẫn và kinh nghiệm thực tế phù hợp không chỉ với đặc điểm của từng loại phương tiện mà còn với nhu cầu của mỗi nhóm đối tượng. Họ cần được hướng dẫn và trải nghiệm thực tế để sử dụng các phương tiện truyền thông một cách đúng đắn. Các dự án được thiết kế để thực hiện điều này, đặc biệt là trong giới trẻ, nên được khuyến khích và nhân rộng trong các trường học Công giáo ở mọi cấp độ, trong các chủng viện và các hiệp hội tông đồ giáo dân, và nên được định hướng theo các nguyên tắc của đạo đức Kitô giáo. Để có kết quả nhanh chóng hơn, nên đưa và giải thích giáo huấn và quy định của Công giáo về vấn đề này trong sách giáo lý.
15. Linh mục, tu sĩ và giáo dân cần được đào tạo bài bản để có thể sử dụng hiệu quả các phương tiện truyền thông vào công cuộc loan báo Tin Mừng. Giáo dân cần được trang bị kiến thức chuyên môn, giáo lý và đạo đức vững vàng. Cần thiết lập thêm nhiều trường học, học viện hoặc khoa đào tạo chuyên ngành báo chí, truyền thông, sản xuất phim ảnh,... cho những người hoạt động trong lĩnh vực này, giúp họ có được sự đào tạo toàn diện, thấm nhuần tinh thần Kitô giáo và giáo huấn xã hội của Giáo hội. Diễn viên cũng cần được hướng dẫn để sử dụng tài năng của mình phục vụ xã hội. Các nhà phê bình phim ảnh, truyền hình,... cần được đào tạo bài bản về chuyên môn và đạo đức để đưa ra những nhận định khách quan, công tâm.
18. Để nâng cao hiệu quả hoạt động truyền thông của Giáo hội, mỗi năm mỗi giáo phận nên chọn một ngày, theo quyết định của Đức Giám mục, để nhắc nhở các tín hữu về trách nhiệm của mình trong lĩnh vực này. Trong ngày này, mọi người được mời gọi cầu nguyện cho hoạt động truyền thông của Giáo hội và đóng góp tài chính để hỗ trợ các dự án truyền thông đáp ứng nhu cầu của Giáo hội.
12. BỘ GIÁO DỤC CÔNG GIÁO, Các quy định dành cho các Vị Giám đốc các chủng viện ở Ý (10/06/1964):
"1. Công đồng Vatican II đã dành sự quan tâm đặc biệt đến các phương tiện truyền thông xã hội, thể hiện rõ nét qua Sắc lệnh Inter mirifica. Điều này là động lực thúc đẩy những người có trách nhiệm đào tạo linh mục tương lai hướng dẫn các chủng sinh đánh giá đúng đắn về các phương tiện truyền thông và cách thức sử dụng chúng một cách hiệu quả trong mục vụ.
2. Trong những năm qua, việc cho phép các chủng sinh, đặc biệt là các chủng sinh cao học, xem phim ảnh, chương trình truyền hình và sau đó thảo luận đã trở nên phổ biến. Hoạt động này giúp các chủng sinh có cái nhìn đúng đắn về các phương tiện nghe nhìn, đồng thời rèn luyện khả năng đánh giá nội dung dưới góc độ thẩm mỹ và đạo đức.
3. Chúng tôi hy vọng các giáo sĩ sẽ nâng cao nhận thức về tầm ảnh hưởng của các phương tiện truyền thông đối với xã hội ngày nay. Chúng tôi hoan nghênh những sáng kiến đã được triển khai tại các học viện đào tạo giáo sĩ, đồng thời nhắc nhở các vị hữu trách cần điều chỉnh các hoạt động này theo quy định của Bộ [...].
4. Chúng ta cần nhớ rằng chủng sinh là những người đang chuẩn bị trở thành con người của Thiên Chúa (2 Tm 4, 17), cần có sự nhạy cảm và tế nhị đặc biệt trước những gì thế giới cung cấp. Do đó, việc cho phép chủng sinh xem phim ảnh hoặc chương trình truyền hình, ngay cả những chương trình có chất lượng cao, là không phù hợp. Các tiêu chí lựa chọn chương trình cho chủng sinh phải nghiêm ngặt hơn nhiều so với các tín hữu đơn thuần, để tránh mầm mống của chủ nghĩa tự nhiên ảnh hưởng tiêu cực đến những người được kêu gọi phân phát các mầu nhiệm của Thiên Chúa (1 Cr 4, 2) và quản lý ân sủng của Thiên Chúa (1 Pr 4, 10).
5. [...] 4) Sau mỗi buổi chiếu phim, cần tổ chức thảo luận phê bình với sự hướng dẫn của một linh mục am hiểu và có đời sống tâm linh tốt.
5. Cha Giám đốc chủng viện, dưới sự đồng ý của Đức Giám mục giáo phận, sẽ bố trí đào tạo cho linh mục phụ trách và các linh mục khác, tạo điều kiện cho họ tham gia các khóa học phù hợp [...] và đảm bảo thư viện có đủ các tài liệu phê bình điện ảnh [...]."
13. Phaolô VI, Diễn văn tại Đại hội ACEC lần thứ nhất (ngày 7/7/1964) - Về việc cập nhật giáo huấn của Giáo hội:
"4. Giáo hội đã ban hành nhiều tài liệu [...]. Lời khuyên đầu tiên của tôi dành cho các bạn là: hãy nghiên cứu kỹ lưỡng những tài liệu đó để hiểu rõ quan điểm của Giáo hội về lĩnh vực hoạt động của các bạn. Đừng ngần ngại đặt giáo huấn của Giáo hội - vốn được cân nhắc kỹ lưỡng, có thẩm quyền và nhân văn - lên trên những lý thuyết của các học giả đời, những ý tưởng thời thượng của giới nghệ sĩ, nhà phê bình hay dư luận. Giáo huấn ấy, ngay cả trong lĩnh vực thay đổi không ngừng như điện ảnh, không phải là xiềng xích gò bó mà là điểm tựa vững chắc giúp chúng ta không bị lạc lối giữa dòng chảy thông tin và ý tưởng. Nó là tiêu chí để chúng ta thấu hiểu, phán đoán và phân loại mọi thứ một cách chính xác. Nó là nguồn tư tưởng và kinh nghiệm giúp chúng ta tự tin đứng vững, trở thành người dẫn đường đáng tin cậy cho người khác. Đó chính là dấu hiệu của sự trưởng thành, như lời Kinh Thánh: "để chúng ta không còn như trẻ con nữa, bị dắt đi, bị lôi cuốn theo mọi chiều gió của học thuyết" (Ep 4, 14)."
14. CÔNG ĐỒNG VATICAN II, Sắc lệnh Christus Dominus về hoạt động mục vụ của các giám mục trong Giáo Hội (28 tháng 10 năm 1965: AAS 58 [1966], 673), liên quan đến việc sử dụng truyền thông đại chúng của các giám mục, Chương II: Các giám mục và các Giáo Hội địa phương: "13. [...] Để loan báo giáo lý Kitô giáo, các ngài hãy sử dụng các tuyên bố công khai [...] được đưa ra trên báo chí và các phương tiện truyền thông xã hội khác, là những phương tiện phải được sử dụng để loan báo Tin Mừng của Chúa Kitô."
15. Đức Phaolô VI, Tông thư Ecclesiae Sanctae, nhằm áp dụng một số sắc lệnh của Công Đồng Vatican II (6 tháng 8 năm 1966: AAS 58 [1966], 757), liên quan đến số 16 của Christus Dominus và số 19 của Presbyterorum Ordinis, quy định như sau: "7. Các giám mục, hoặc cá nhân hoặc cộng tác với các giám mục khác, phải sắp xếp để tất cả các linh mục, ngay cả khi họ đang thực sự phục vụ trong sứ vụ, phải theo học một khóa giảng thuyết mục vụ trong một năm sau khi thụ phong và phải định kỳ tham dự các bài giảng khác, qua đó giúp họ có cơ hội trau dồi kiến thức sâu rộng hơn về các vấn đề mục vụ, về khoa thần học, về thần học luân lý và phụng vụ, về việc củng cố đời sống tâm linh và chia sẻ kinh nghiệm tông đồ với nhau."
16. Đức Phaolô VI, Thông điệp Sacerdotalis caelibatus (24 tháng 6 năm 1967, AAS 59 [1967], 567). Các đoạn trích được lấy từ phần thứ hai của thông điệp, trong đó nêu rõ các phương tiện để sống đời sống khiết tịnh trọn hảo một cách thanh thản:
"60. [...] Những khó khăn và vấn đề khiến việc giữ gìn đời sống độc thân trở nên thử thách hoặc thực sự bất khả thi đối với một số người, thường bắt nguồn từ việc đào tạo linh mục mà do những thay đổi sâu sắc đã diễn ra trong thời gian gần đây, không còn hoàn toàn phù hợp để hình thành một nhân cách xứng đáng với 'người của Thiên Chúa' (1Tm 6, 11).
65. Khi đã xác định được sự phù hợp của ứng viên, [...] cần phải quan tâm đến sự phát triển nhân cách của họ một cách tiến bộ, với cả giáo dục trí tuệ và đạo đức, được thiết kế để kiểm soát và làm chủ hoàn toàn bản năng, tình cảm và đam mê.
70. Các thanh niên nên tự thuyết phục mình rằng họ sẽ không thể vượt qua hành trình khó khăn của mình nếu không có một sự khổ chế đặc biệt, cao hơn yêu cầu đối với các tín hữu khác và chính bản thân những người mong muốn trở thành linh mục. Một sự khổ chế nghiêm khắc [...], đó là sự thực hành có suy tư và kiên trì những nhân đức làm cho một người trở thành linh mục [...] khôn ngoan và công bằng, kiên định và điều độ, [...] khiết tịnh đạt được bằng sự kiên trì, hài hòa với tất cả các nhân đức khác, tự nhiên và siêu nhiên [...]. Bằng cách đó, người mong muốn trở thành linh mục sẽ có được một nhân cách cân bằng, mạnh mẽ và trưởng thành.
77. Luôn ý thức về việc hiến thân trọn vẹn cho Chúa, linh mục nên biết cách đề phòng những khuynh hướng tình cảm có thể gây nguy hiểm cho một tâm hồn không đủ sáng suốt hoặc không được Chúa Thánh Thần hướng dẫn. Linh mục nên cẩn thận, đừng tìm kiếm những lý do thiêng liêng hoặc tông đồ cho những gì thực chất là những khuynh hướng nguy hiểm của con tim."
17. Bộ Giáo dục Công giáo, Thư luân chuyển I seminari minori (23 tháng 5 năm 1968: Enchiridion Vaticanum, III, trang 161): "Tổ chức này có một mục đích rất chính xác: vun trồng hạt giống ơn gọi. Từ đó nảy sinh nghĩa vụ phải có một chế độ phù hợp với lứa tuổi: tiếp xúc gần gũi hơn với thực tế của gia đình (học sinh), giáo xứ của họ, các tổ chức thanh thiếu niên. Vì mục đích này, các phương tiện truyền thông xã hội nên được sử dụng, theo sự hướng dẫn của nền giáo dục khôn ngoan."
18. Bộ Giáo dục Công giáo, Ratio fundamentalis institutionis sacerdotalis (19 tháng 3 năm 1985). Cùng với hai lần đề cập rõ ràng đến các phương tiện truyền thông đại chúng trong số 68 và 69, còn có rất nhiều dấu hiệu khác có thể được áp dụng cho cùng một chủ đề, ít nhiều. Trong ba phần được trình bày ở đây, số 4 thuộc phần Mở đầu; số 67, 68 và 69 đến từ Chương X: Nghiên cứu về Nghệ thuật và Khoa học; và số 89 thuộc Chương XIV: Giảng dạy:
"4. Nền mục vụ linh mục ngày nay được thực hiện trong một điều kiện hoàn toàn mới, một điều hiển nhiên từ những nhu cầu mới của con người và từ chính kiểu văn minh mà chúng ta đang sống [...]. Những khía cạnh của nền văn minh thời đại chúng ta phải được ghi nhớ thường xuyên, vì đời sống và hoạt động của một linh mục, và chính sự chuẩn bị của ngài cho chức tư tế, phải tính đến những điều đó. Trên thực tế, những người trẻ tuổi ngày nay bước vào chủng viện được đưa vào xã hội bằng nhiều hình thức giao tiếp xã hội khác nhau, trong đó có tôn giáo và trên hết là đời sống của linh mục.
67. Hãy dạy cho chủng sinh cách diễn đạt phù hợp với con người ngày nay, cũng như nghệ thuật nói và viết, điều thực sự cần thiết cho linh mục.
68. Trong bối cảnh văn hóa hiện đại, con người không chỉ được giáo dục bởi sách vở và thầy cô mà còn chịu ảnh hưởng ngày càng nhiều từ các phương tiện truyền thông nghe nhìn. Do đó, các linh mục cần biết cách sử dụng hiệu quả các phương tiện này, không phải bằng cách bị động tiếp nhận mà bằng cách đánh giá chúng một cách phê phán. Điều này chỉ có thể thực hiện được nếu chủng sinh được đào tạo bởi những người có năng lực cả về lý thuyết lẫn thực hành, đồng thời được thực hành sử dụng các phương tiện truyền thông một cách khôn ngoan và hợp lý, giúp họ rèn luyện bản thân, giáo dục giáo dân và sử dụng hiệu quả các phương tiện này trong sứ vụ tông đồ.
69. Ngay từ những ngày đầu tiên trong chủng viện, và ngày càng tăng lên khi họ lớn lên và quá trình đào tạo tiến bộ, các chủng sinh sẽ được giới thiệu về thực tế xã hội, đặc biệt là thực tế xã hội đang tồn tại ở đất nước của họ, để từ việc nghiên cứu các ngành khác nhau và các tình huống mà con người gặp phải trong cuộc sống hàng ngày, họ có thể nhận thức đúng đắn về các vấn đề và tranh luận xã hội, có thể đánh giá bản chất của chúng, cách chúng liên hệ với nhau, và những khó khăn và hậu quả phát sinh từ chúng; cũng như để tìm ra các giải pháp khách quan và chính đáng dưới ánh sáng của luật tự nhiên và giáo huấn của Tin Mừng.
89. Các chủng sinh sẽ học cách đánh giá phê phán nền văn hóa ngày nay và các tác giả của nó, tiếp thu cái tốt và loại bỏ cái xấu. Vì mục đích này, sẽ rất hữu ích cho họ khi đọc sách và bình luận với giáo sư của mình, và sau đó thảo luận phê bình về những gì đã đọc."
19. Bộ Giáo sĩ, Kim chỉ nam Giáo lý chung (11 tháng 4 năm 1971, AAS 64 [1972], 97): "123. [...] Giáo lý có nhiệm vụ giáo dục các Kitô hữu phân biệt bản chất và giá trị của những gì mà các phương tiện truyền thông đại chúng đề xuất cho họ. Rõ ràng điều này giả định một kiến thức về công nghệ và ngôn ngữ của những phương tiện này."
20. Văn phòng Thống nhất Kitô giáo: Chỉ nam Đại kết. Phần II: Đại kết trong Giảng dạy Cao cấp (16 tháng 4 năm 1970: Enchiridion Vaticanum, II, 1976, 1044): "92 - 13. [...] Trong khi việc đào tạo chung hoặc có hệ thống phải do các giáo sư Công giáo đảm nhiệm, đặc biệt là về chú giải, thần học tín lý và luân lý, thì các sinh viên Công giáo có thể theo học tại các trường dạy các môn thực hành, chẳng hạn như ngôn ngữ Kinh thánh, phương tiện truyền thông xã hội, xã hội học tôn giáo trong chừng mực khoa học mới này được áp dụng để quan sát các sự kiện [...]. Các bề trên có trách nhiệm sắp xếp tất cả những điều này, sau khi đã nghe ý kiến của sinh viên, theo quy định của chủng viện và các quy tắc do đấng bản quyền quy định."
21. Phaolô VI, Tông thư Octogesima adveniens, gửi Đức Hồng y Maurice Roy, Chủ tịch Hội đồng Giáo dân và Ủy ban Giáo hoàng về Công lý và Hòa bình, nhân kỷ niệm 80 năm Thông điệp Rerum novarum (1891-1971), (14 tháng 5 năm 1971: AAS 63 [1971], 415). Văn kiện đề cập đến ảnh hưởng tâm lý xã hội của các phương tiện truyền thông đại chúng: "20. Trong số những thay đổi chính yếu của thời đại chúng ta, chúng ta không muốn quên tầm quan trọng ngày càng tăng của các phương tiện truyền thông xã hội và ảnh hưởng của chúng đối với việc biến đổi tâm lý, nhận thức và tổ chức của nhân loại và xã hội loài người [...]. Vậy làm sao chúng ta có thể tránh tự hỏi mình về những người thực sự nắm giữ quyền lực này, về những mục tiêu mà họ theo đuổi và những phương tiện mà họ sử dụng; và về những hậu quả của hành động của họ đối với việc thực thi các quyền tự do cá nhân, cả trong lĩnh vực chính trị và ý thức hệ lẫn trong đời sống xã hội, kinh tế và văn hóa?"
22. ỦY BAN GIÁO HOÀNG VỀ TRUYỀN THÔNG XÃ HỘI, Huấn thị Mục vụ Communio et Progressio, nhằm áp dụng Sắc lệnh Công đồng Inter Mirifica (23 tháng 5 năm 1971: AAS 63 [1971], 583). Văn kiện đề cập đến việc đào tạo nói chung (số 64), sau đó, cụ thể là đào tạo người tiếp nhận thông tin (số 15, 65-66, 69 và 107), đào tạo những người Công giáo làm việc trong lĩnh vực truyền thông (số 106), giảng dạy về luân lý và mục vụ liên quan đến truyền thông (số 108), và đào tạo riêng cho hàng giáo sĩ (số 110 và 111): xin đọc nội dung việt ngữ của các số vừa nêu tại link này. https://communication-theology.com/tai-lieu/toa-thanh/1971-huan-thi-muc-vu-hiep-thong-va-tien-bo.
23. BỘ GIÁO DỤC CÔNG GIÁO: Hướng dẫn đào tạo về đời sống độc thân linh mục: nhằm thi hành Thông điệp Sacerdotalis Caelibatus của Đức Phaolô VI (11 tháng 4 năm 1974: Enchiridion Vaticanum, V, 1979, tr. 188). Trong phần IV về Chủng viện như một Trung tâm Giáo dục, đoạn cuối cùng, bên dưới, đề cập đến Các phương tiện truyền thông xã hội:
"89. Các phương tiện truyền thông xã hội đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành con người ngày nay, và cả linh mục, vì chúng có ảnh hưởng rõ ràng đến vấn đề rèn luyện đức trinh khiết hoàn hảo: trên thực tế, ngày nay chúng được sử dụng rất nhiều để phục vụ cho tình dục. Do đó, vấn đề liên quan đến đời sống cá nhân của linh mục, người sử dụng, tự nguyện hay không tự nguyện, những phương tiện này và chịu ảnh hưởng của chúng; nó cũng liên quan đến mục vụ của ngài, vì ngài nhận thức được rằng những phương tiện này góp phần hình thành các tín hữu của mình, cung cấp thông tin cho họ và tham gia vào việc đưa họ đến sự trưởng thành xã hội. Linh mục cần phải ở vị trí có thể giúp họ gặt hái lợi ích từ nguồn lực mới này, đồng thời bảo vệ họ khỏi những tác động gây hại của truyền thông (xem Sắc lệnh Inter Mirifica của Công đồng Vatican, passim; Ủy ban Giáo hoàng về Truyền thông Xã hội, Huấn thị Mục vụ Communio et Progressio, passim).
Không chỉ để tự đào tạo bản thân, mà còn để thực sự đào tạo cho sứ vụ tông đồ, điều hợp lý là các ứng sinh linh mục nên được hướng dẫn sử dụng các phương tiện truyền thông xã hội; và nói chung là họ nên được thực hành nghệ thuật truyền đạt bằng lời nói hoặc bằng văn bản suy nghĩ của mình cho người thời nay, và theo cách phù hợp với não trạng hiện đại.
Rõ ràng là chúng ta đang phải đối mặt với một vấn đề rất quan trọng và nghiêm trọng, nếu xét đến tình hình thực tế của báo chí và lượng khán giả rộng lớn cũng như tác động mạnh mẽ của đài phát thanh và truyền hình. Cả bên ngoài và bên trong chủng viện, môi trường cộng đồng bị ảnh hưởng chặt chẽ bởi việc sử dụng các phương tiện này, vốn có ảnh hưởng lớn đến việc hình thành hoặc biến dạng các ứng viên linh mục.
Do đó, vấn đề sư phạm của các phương tiện truyền thông xã hội không thể chỉ đơn thuần là một quy định kỷ luật về cách thức sử dụng chúng: trước hết đó là vấn đề giáo dục tích cực, suy tư về hiện tượng xã hội mà chúng ta đang đắm chìm; một vấn đề về việc chuẩn bị và đào tạo những người thầy có khả năng chăm lo khía cạnh đào tạo này. Vấn đề không chỉ là ngăn chặn những thiệt hại có thể do một công cụ có thể gây nguy hiểm, mà là giáo dục con người theo cách khiến họ sẵn sàng sống có trách nhiệm trong thực tế cụ thể hàng ngày xung quanh mình."
24. ĐỨC PHAOLÔ VI, Sứ điệp nhân Ngày Thế giới Truyền thông lần thứ VIII (16 tháng 5 năm 1974: L'Osservatore Romano, ngày 17 tháng 5 năm 1974) với chủ đề: Các phương tiện truyền thông và việc loan báo Tin Mừng trong thế giới đương đại:
"Tiếp theo, cần tìm kiếm những phương pháp tông đồ mới và cải tiến hơn, áp dụng các phương tiện nghe nhìn mới và các phương tiện liên quan vào việc dạy giáo lý, vào công tác giáo dục dưới nhiều hình thức, vào việc trình bày đời sống của Giáo hội, phụng vụ, mục tiêu, khó khăn của Giáo hội, nhưng trên tất cả là làm chứng cho đức tin và đức ái, là những điều luôn thúc đẩy và đổi mới Giáo hội.
Cuối cùng, các Kitô hữu phải xem xét cách sử dụng tốt nhất các phương tiện truyền thông xã hội để tiếp cận các quốc gia, xã hội và cá nhân mà sứ vụ loan báo Lời Chúa không thể được thực hiện trực tiếp do hoàn cảnh đặc biệt, hoặc thiếu thốn thừa tác viên, hoặc do Giáo hội không thể tự do thực hiện sứ mạng của mình."
25. ĐỨC PHAOLÔ VI, Bài Nói Chuyện (22 tháng 6 năm 1974: L'Osservatore Romano, ngày 23 tháng 6 năm 1974), về nhiệm vụ chính yếu của linh mục:
"Giống như Chúa Giêsu, giống như các Tông đồ, các linh mục hoàn toàn phục vụ Thiên Chúa và con người: đó là số phận của họ. Do đó, bổn phận đào tạo của họ, một bổn phận ngày càng đặt nặng lên họ theo thời gian. Đào tạo về mặt tâm linh [...]; đào tạo mục vụ, tìm kiếm và xem xét, dưới ánh sáng của các tài liệu của Công đồng Vatican II, cách thức phục vụ thế giới mà họ được mời gọi để sống và làm việc nhân danh Chúa Kitô một cách hiệu quả hơn. Đào tạo về mặt giáo lý: bắt nguồn từ đức tin và thích nghi với thời đại, một sự đào tạo sẽ giúp họ hiểu rõ hơn về thế giới thông qua việc học hỏi không chỉ mang tính hiện tượng học mà còn được nuôi dưỡng bằng dòng máu của Mặc Khải và Truyền Thống, điều đó sẽ giúp họ suy nghĩ rõ ràng và do đó trở thành men trong khối bột và mang ánh sáng của Chúa Kitô đến cho thế giới."
26. ĐỨC PHAOLÔ VI, Diễn văn khai mạc Thánh Công Đồng Giám mục lần thứ nhất, năm 1974, về Loan báo Tin Mừng (27 tháng 9 năm 1974: AAS 66 [1974], 563):
"Người ta không nên quên những khả năng to lớn, mà trước đây chưa từng mơ tới, mà thế giới ngày nay mang lại trên con đường của những người, nhân danh Chúa Kitô, mang Tin Mừng đến (Rm 10, 15). Thật vậy, ai có thể nói được những chân trời bao la nào mà các phương tiện truyền thông xã hội đã mở ra cho việc phổ biến Lời cứu độ một cách phổ quát và đồng thời? [...]. Điều này có nghĩa là hành động Loan báo Tin Mừng ngày nay phải được suy nghĩ với một tầm nhìn rộng lớn và hiện đại: trong phương pháp, trong công việc, trong việc tổ chức và đào tạo những người làm công tác Tin Mừng."
27. THÁNH CÔNG ĐỒNG GIÁM MỤC - 1974, về Loan báo Tin Mừng: Tuyên ngôn của các Nghị phụ Thánh Công Đồng Trong Chúa Thánh Thần (25 tháng 10 năm 1974: Enchiridion Vaticanum, V, 1979, số 619):
"9. [...] Việc truyền đạt Tin Mừng [...] diễn ra qua lời nói, việc làm và đời sống, mỗi yếu tố đều liên kết chặt chẽ và được xác định bởi nhiều yếu tố, gần như là cấu thành, của những người nghe Lời Chúa: đó là nhu cầu và khát vọng của họ, cách họ nói, nghe, suy nghĩ, đánh giá và tiếp xúc với người khác [...]. Hơn nữa, sự phát triển của các phương tiện truyền thông xã hội đã mở ra những con đường mới cho việc loan báo Tin Mừng phù hợp với cách thức suy nghĩ và hành động của con người ngày nay."
28. ĐỨC PHAOLÔ VI, Diễn văn bế mạc Thánh Công Đồng Giám mục - 1974, về Loan báo Tin Mừng (26 tháng 10 năm 1974: AAS 66 [1974], 635):
"Thánh Công Đồng này [...] đã thành công tốt đẹp, bởi vì ngày nay trong Giáo hội có một nhận thức, một cảm thức sâu sắc về bổn phận bổ sung là sử dụng tất cả các phương tiện bên ngoài mà nghệ thuật, đời sống và công nghệ ngày nay cung cấp cho chúng ta, để loan truyền Tin Mừng hân hoan."
29. BAN THƯ KÝ ĐOÀN KẾT KITÔ GIÁO, Định hướng và Đề xuất cho việc áp dụng Sắc lệnh Nostra Aetate của Công đồng (ngày 1 tháng 12 năm 1974: AAS 67 [1975], 73). Về việc đào tạo các nhà giáo dục:
"Thông tin về những vấn đề này cần được hướng đến mọi cấp độ giảng dạy và giáo dục Kitô giáo. Trong số các phương tiện thông tin, cần đặc biệt chú trọng đến [...] các phương tiện truyền thông xã hội (báo chí, đài phát thanh, điện ảnh, truyền hình). Việc sử dụng hiệu quả các phương tiện này đòi hỏi phải có sự đào tạo đặc biệt cho giáo viên và nhà giáo dục trong trường học, cũng như trong các chủng viện và trường đại học."
30. QUỐC VỤ KHANH TÒA THÁNH, Thư gửi Chủ tịch OCIC, Lucien Labelle (ngày 4 tháng 4 năm 1975):
"Giáo sĩ và giáo dân có trách nhiệm phải cảm thấy mình được thúc đẩy để đưa vào thế giới điện ảnh những giá trị thực sự nhân bản và phù hợp với Tin Mừng, để chống lại những hệ tư tưởng trái ngược, và để làm cho các tổ chức giáo hội điều phối công việc tông đồ này hiệu quả hơn."
31. ĐỨC PHAOLÔ VI, Tông huấn Evangelii Nuntiandi, về việc loan báo Tin Mừng cho thế giới ngày nay (ngày 8 tháng 12 năm 1975: AAS 68 [1976], 5). Các phần được trích dẫn đề cập đến việc điều chỉnh và trung thành với ngôn ngữ (được sử dụng trong việc loan báo Tin Mừng) với điều kiện địa phương, và về việc chuẩn bị cho những người loan báo Tin Mừng:
63. Các Giáo hội địa phương phải biến nội dung sứ điệp Tin Mừng thành của riêng mình. Không được hy sinh các chân lý thiết yếu, họ phải chuyển tải sứ điệp này sang ngôn ngữ mà người dân họ phục vụ có thể hiểu được, và do đó loan báo nó. Các Giáo hội phải thực hiện việc chuyển tải này với tất cả sự phán đoán, cẩn trọng, tôn kính và năng lực mà bản chất của nhiệm vụ đòi hỏi trong các lĩnh vực liên quan đến phụng vụ thánh, giáo lý, việc hình thành các nguyên tắc thần học, các cấu trúc giáo hội cấp hai và thừa tác vụ. Khi chúng ta nói về ngôn ngữ, chúng ta phải hiểu đó không chỉ là giải thích các từ ngữ hay văn phong văn học mà là sự thích nghi về nhân học và văn hóa.
73. Chuẩn bị kỹ lưỡng là điều cần thiết cho tất cả những người hoạt động trong lĩnh vực loan báo Tin Mừng và điều này đặc biệt cần thiết cho những ai tận tâm với thừa tác vụ Lời Chúa. Được truyền cảm hứng từ sự đánh giá cao hơn bao giờ hết về tính cao quý và phong phú của Lời Chúa, những người có chức năng loan báo Lời Chúa phải hết sức cẩn thận để đảm bảo rằng lời nói của họ được trang trọng, được lựa chọn kỹ lưỡng và phù hợp với thính giả của họ. Mọi người đều biết tầm quan trọng sống còn của nghệ thuật nói trong thời đại ngày nay. Chắc chắn, do đó, các nhà giảng thuyết và các giáo lý viên không thể bỏ qua nó. Chúng tôi tha thiết mong muốn rằng trong mỗi Giáo hội, các giám mục sẽ cung cấp hướng dẫn phù hợp cho tất cả các thừa tác viên Lời Chúa. Nếu việc giáo dục này được thực hiện một cách nghiêm túc, nó sẽ không chỉ phát triển sự tự tin của họ mà còn giúp tăng thêm lòng nhiệt thành rao giảng Chúa Giêsu Kitô trong thời đại chúng ta.
32. THƯỢNG HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC - 1977, về Giáo lý trong thời đại chúng ta. Các đề xuất được đọc trong Phiên họp toàn thể lần thứ 15, ngày 21 tháng 10 năm 1977, và được chấp thuận trong Phiên họp toàn thể lần thứ 16 vào ngày 22 tháng 10 năm 1977:
"Các phương tiện truyền thông hiện nay mang đến cho việc dạy giáo lý một cơ hội không thể bỏ qua [...]. Một số lượng lớn các Kitô hữu đang chịu ảnh hưởng của các phương tiện này mà không được chuẩn bị để phản ứng bằng tinh thần phê phán. Các phương tiện này, đặc biệt là radio và truyền hình, là phương tiện duy nhất để tiếp cận những nơi và con người, ngay cả những người ở xa, bị gạt ra ngoài lề, hoặc theo cách này hay cách khác bị cản trở tự do tôn giáo không thể tham gia vào đời sống Giáo hội. Các phương tiện truyền thông này có ảnh hưởng lớn đến việc hình thành dư luận xã hội; việc dạy giáo lý nên sử dụng chúng một cách chính xác và hiệu quả, giáo dục các Kitô hữu để họ sử dụng chúng trong khi vẫn giữ được tinh thần phê phán để vô hiệu hóa bất kỳ tác động có hại nào [...]. Cần tiếp tục đào tạo đội ngũ nhân sự phù hợp, cả về mặt tôn giáo và kỹ thuật, để tham gia vào loại hình tông đồ này và xử lý nó một cách hiệu quả. (Đề xuất XX)"
33. ĐỨC PHAOLÔ VI, Sứ điệp Ngày Truyền thông Thế giới lần thứ 12, với chủ đề Quyền lợi và bổn phận của người tiếp nhận (23 tháng 4 năm 1978: AAS 70 [1978], 341):
"[...] Nếu quả thật tương lai của gia đình nhân loại phụ thuộc phần lớn vào cách thức sử dụng các phương tiện truyền thông, thì việc đào tạo 'người tiếp nhận' cần được coi là ưu tiên hàng đầu trong lĩnh vực mục vụ cũng như trong công tác giáo dục nói chung.
Các bước đầu tiên trong việc giáo dục truyền thông cần được thực hiện trong gia đình. Sau đó, nó nên được tiếp tục ở trường học. Công đồng Vatican II đã đưa ra điều này như một nghĩa vụ cụ thể đối với các trường Công giáo ở mọi cấp bậc (x. Sắc lệnh Inter Mirifica, 16) và đối với các Hiệp hội có cảm hứng Kitô giáo tham gia vào giáo dục. Sắc lệnh nói thêm như sau: 'Để thực hiện điều này một cách nhanh chóng và hiệu quả hơn, các giáo huấn và chính sách của Công giáo liên quan đến phương tiện truyền thông phải được trình bày và giải thích trong các sách giáo lý' (ibid.). Giáo viên phải nhớ rằng họ đang làm việc trong bối cảnh học sinh của họ hàng ngày tiếp xúc với rất nhiều chương trình và chương trình phát sóng liên quan đến đức tin và các nguyên tắc đạo đức, và do đó, họ cần phải được làm rõ hoặc sửa chữa liên tục."
34. ĐỨC GIOAN PHAOLÔ I, Bài giảng cho giáo sĩ Rôma sau khi ngài được bầu chọn (ngày 7 tháng 9 năm 1978: L'Osservatore Romano, ngày 1 tháng 10 năm 1978):
"4. Kỷ luật 'vĩ đại' đòi hỏi một bầu khí thích hợp. Trước hết là sự tĩnh tâm [...]. Xung quanh chúng ta luôn có sự chuyển động, người nói chuyện, báo chí, radio, truyền hình. Với kỷ luật và sự cân bằng để trở thành linh mục, chúng ta, những linh mục, phải nói: 'Vượt ra khỏi những giới hạn nhất định, đối với tôi, là linh mục của Chúa, bạn không tồn tại; tôi phải giữ im lặng cho tâm hồn mình; Tôi tách mình khỏi bạn để kết hợp với Chúa của tôi'. Cảm nhận được linh mục của họ thường xuyên kết hợp với Chúa, ngày nay, là mong muốn của nhiều tín hữu tốt lành."
35. ĐỨC GIOAN PHAOLÔ II, Sứ điệp gửi UNDA nhân kỷ niệm 50 năm thành lập (25 tháng 10 năm 1978: L'Osservatore Romano, 28 tháng 10 năm 1978). Về radio và truyền hình:
"[...] Loan báo Tin Mừng phải được thực hiện thông qua việc sử dụng thành thạo và chuyên nghiệp radio, truyền hình và các phương tiện nghe nhìn [...]. Đây là mục tiêu cao quý và rất Kitô giáo, và Đức Giáo hoàng đồng tình với các bạn trong niềm tin rằng nó chỉ có thể được phục vụ một cách xứng đáng bằng sự chuyên nghiệp không cho phép bất cứ điều gì được chuẩn bị một cách cẩu thả [...]."
36. ĐỨC GIOAN PHAOLÔ II, Tông hiến Sapientia christiana về việc học tập tại các Đại học và Khoa Thần học (29 tháng 4 năm 1979: AAS 71 [1979], 469). Trong Phần I: Các quy định chung, Tiêu đề VIII: Phương tiện giảng dạy, người ta đọc:
"Điều 55, - 1. Khoa cũng phải cung cấp các phương tiện kỹ thuật, nghe nhìn, v.v., sẽ hữu ích trong giảng dạy.
2. Theo tính chất và mục đích riêng của Trường Đại học hoặc Khoa, phải có các cơ sở nghiên cứu và phòng thí nghiệm khoa học, cũng như các phương tiện hỗ trợ khác cần thiết cho việc thực hiện mục tiêu của mình."
37. BỘ GIÁO DỤC CÔNG GIÁO, Huấn thị In ecclesiasticam futurorum, về việc đào tạo phụng vụ trong các chủng viện (ngày 3 tháng 6 năm 1979: Enchiridion Vaticanum, VI, 1980, trang 1044). Trong Phần II: Giảng dạy phụng vụ thánh trong các chủng viện, số 58:
"58. Điều đặc biệt cần thiết là các chủng sinh phải được dạy nghệ thuật nói và diễn đạt bằng cử chỉ và hành động, đồng thời phải nắm vững cách sử dụng các phương tiện truyền thông xã hội. Trên thực tế, trong cử hành phụng vụ, điều tối quan trọng là các tín hữu không chỉ hiểu những gì linh mục nói hoặc đọc - cho dù đó là bài giảng, kinh nguyện hay lời cầu nguyện - mà còn là thực tế mà ngài phải diễn tả bằng cử chỉ và hành động. Việc đào tạo cho việc này có tầm quan trọng rất lớn trong phụng vụ được canh tân đến nỗi nó cần được quan tâm đặc biệt."
38. ĐỨC GIOAN PHAOLÔ II, Tông huấn Catechesi tradendae về việc dạy giáo lý trong thời đại chúng ta (ngày 16 tháng 10 năm 1979: AAS 71 [1979], 1277):
Bản dịch:
"46. Từ lời dạy bằng miệng của các Tông đồ và các thư từ được lưu hành giữa các Giáo hội cho đến những cách thức và phương tiện hiện đại nhất, việc dạy giáo lý đã không ngừng tìm kiếm những cách thức và phương tiện phù hợp nhất cho sứ mạng của mình, với sự tham gia tích cực của các cộng đồng và theo sự thúc giục của các mục tử. Nỗ lực này phải được tiếp tục. Tôi nghĩ ngay đến những khả năng to lớn được cung cấp bởi các phương tiện truyền thông xã hội và các phương tiện truyền thông nhóm: truyền hình, radio, báo chí, đĩa hát, băng ghi âm - toàn bộ chuỗi các phương tiện nghe nhìn. Những thành tựu trong các lĩnh vực này là động lực để khích lệ hy vọng lớn lao nhất. Ví dụ, kinh nghiệm cho thấy hiệu quả của việc hướng dẫn được đưa ra trên radio hoặc truyền hình, khi nó kết hợp trình độ thẩm mỹ cao và sự trung thành nghiêm ngặt với Huấn quyền. Giáo hội hiện có nhiều cơ hội để xem xét những vấn đề này - chẳng hạn như vào Ngày Truyền thông Xã hội - và không cần thiết phải nói dài dòng về chúng ở đây, mặc dù chúng có tầm quan trọng hàng đầu."
39. BỘ GIÁO DỤC CÔNG GIÁO, Thư gửi các Đấng Bản Quyền địa phương về việc đào tạo thiêng liêng trong các chủng viện (ngày 6 tháng 1 năm 1980: Enchiridion Vaticanum, VII, 1982, trang 68). Trong Phần II: Định hướng, số 3: Lời của thập giá: "những hy sinh thiêng liêng":
"[...] một linh mục không thể nhìn thấy mọi thứ, lắng nghe mọi thứ, nói mọi thứ [...]. Chủng viện phải giúp ngài có khả năng, trong tự do nội tâm, hy sinh và tuân giữ kỷ luật cá nhân một cách khôn ngoan và trung thành."
40. BỘ PHỤNG TỰ VÀ KỶ LUẬT CÁC BÍ TÍCH, Sắc lệnh Ordo lectionum missae về các bài đọc trong Thánh lễ (ngày 21 tháng 1 năm 1981: Enchiridion Vaticanum, VII, 1982, trang 922). Trong Chương II: Cử hành phụng vụ Lời Chúa, thuộc Phần I: Lời Chúa trong việc cử hành Thánh lễ, số 34:
"[...] Cần lưu ý để đảm bảo rằng các độc viên được cung cấp đủ ánh sáng tại am-bôn để đọc văn bản, và họ có thể, tùy theo cơ hội, sử dụng các thiết bị kỹ thuật hiện đại để các tín hữu có thể nghe rõ ràng."
41. Bộ Giáo luật, được Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II ban hành vào ngày 25 tháng 1 năm 1983 với Tông hiến Sacrae disciplinae leges, có hiệu lực vào ngày 27 tháng 11 năm 1983. Trong số chín điều khoản liên quan đến các phương tiện truyền thông xã hội - 666, 747, 761, 779, 804, 822, 823, 1063 và 1369 - chúng tôi chỉ đưa ra năm điều khoản theo một cách nào đó có đề cập đến việc đào tạo riêng cho hàng giáo sĩ.
Trong Quyển II: Dân Chúa: Phần III: Các Hiệp hội đời sống thánh hiến và Tu đoàn tông đồ: Chương IV: Nghĩa vụ và Quyền lợi của các Hiệp hội và Hội viên:
Điều 666. Khi sử dụng các phương tiện truyền thông xã hội, cần phải thận trọng cần thiết. Các hội viên phải tránh những gì gây tổn hại cho ơn gọi và nguy hiểm cho sự trong sạch của người sống đời thánh hiến.
Trong Quyển III: Chức vụ Giảng dạy của Giáo hội
Điều 747.
Giáo hội có bổn phận và quyền lợi độc lập với bất kỳ thẩm quyền trần thế nào trong việc rao giảng Tin Mừng cho mọi người, sử dụng cho mục đích này ngay cả các phương tiện truyền thông xã hội riêng của mình [...].
Giáo hội luôn có quyền, ở mọi nơi, công bố các nguyên tắc luân lý, ngay cả đối với trật tự xã hội, và đưa ra phán đoán về bất kỳ vấn đề nào của con người, trong chừng mực điều đó được đòi hỏi bởi các quyền cơ bản của con người hoặc sự cứu rỗi các linh hồn.
Trong Quyển III: Chức vụ Giảng dạy của Giáo hội, Mục I: Nhiệm vụ Rao giảng Lời Chúa:
Điều 761. Mặc dù phải luôn ưu tiên cho việc rao giảng và dạy giáo lý, nhưng tất cả các phương tiện sẵn có để loan báo giáo lý Kitô giáo phải được sử dụng: trình bày giáo lý trong trường học, trong các viện đại học, tại các hội nghị và các cuộc họp thuộc mọi loại; các tuyên bố công khai của thẩm quyền hợp pháp nhân dịp một số sự kiện nhất định; ấn phẩm và các phương tiện truyền thông xã hội khác.
Trong Quyển III, Mục I, Chương II: Về việc Huấn luyện Giáo lý:
Điều 779. Việc huấn luyện giáo lý phải được thực hiện bằng cách sử dụng tất cả những phương tiện hỗ trợ, nguồn lực giáo dục và phương tiện truyền thông dường như hiệu quả hơn trong việc đảm bảo rằng các tín hữu, tùy theo đặc tính, khả năng, độ tuổi và hoàn cảnh sống của họ, có thể được thấm nhuần giáo lý Công giáo một cách đầy đủ hơn và được chuẩn bị để đưa giáo lý vào thực hành.
Trong Quyển III, Mục IV: Các Phương tiện Truyền thông Xã hội và Đặc biệt là Sách báo:
Điều 822.
Trong khi thi hành chức vụ của mình, các mục tử của Giáo hội, sử dụng quyền lợi thuộc về Giáo hội, phải tận dụng tối đa các phương tiện truyền thông xã hội.
Các mục tử cũng phải dạy các tín hữu rằng họ có bổn phận cộng tác để việc sử dụng các phương tiện truyền thông xã hội được thấm nhuần tinh thần nhân bản và Kitô giáo.
Tất cả các tín hữu, đặc biệt là những người tham gia vào việc quản lý hoặc sử dụng các phương tiện truyền thông, phải siêng năng hỗ trợ hoạt động mục vụ, để Giáo hội có thể thi hành chức vụ của mình một cách hiệu quả hơn thông qua các phương tiện này.
42. GIOAN PHAOLÔ II, Thông điệp Ngày Truyền thông Xã hội Thế giới lần thứ 19 (19 tháng 5 năm 1985), với chủ đề Truyền thông xã hội cho việc đào tạo Kitô giáo cho giới trẻ (15 tháng 4 năm 1985: L'Osservatore Romano, 27 tháng 4 năm 1985, tr. 5). Hai đoạn trích này chứa đựng một trong những lần đầu tiên Huấn quyền đề cập đến kỹ thuật điện tử và lời kêu gọi thường xuyên được lặp lại về việc đào tạo, cả về lý thuyết lẫn thực hành, cho các chủng sinh trong các chủng viện:
"Thế giới truyền thông xã hội ngày nay đang tham gia vào một sự phát triển cực kỳ phức tạp và chóng mặt, một sự phát triển mà kết quả cuối cùng không thể lường trước được (ngày nay chúng ta nói về thời đại kỹ thuật điện tử, để chỉ sự tương tác ngày càng tăng giữa công nghệ và điện tử); và trong thế giới phức tạp này, chúng ta gặp phải không ít vấn đề, liên quan đến việc xây dựng một trật tự thông tin và truyền thông thế giới mới, trong sự tương tác với những triển vọng do việc sử dụng vệ tinh và chinh phục không gian mở ra.
Chúng ta đang nói về một cuộc cách mạng không chỉ ngụ ý sự thay đổi trong hệ thống và kỹ thuật truyền thông, mà còn liên quan đến toàn bộ vũ trụ văn hóa, xã hội và tinh thần của con người [...]. [...]. Điều này rõ ràng đòi hỏi:
1. Một hành động giáo dục sâu sắc, trong gia đình, trong trường học, trong giáo xứ, thông qua giáo lý, để hướng dẫn và hướng dẫn người trẻ sử dụng các phương tiện truyền thông đại chúng một cách cân bằng và kỷ luật, giúp họ hình thành óc phán đoán phê phán, được soi sáng bởi đức tin, về những gì họ nhìn thấy, nghe thấy và đọc được (xem Inter mirifica, số 10, 16; Communio et progressio, số 67-70, 107);
Việc đào tạo thực hành và lý thuyết cẩn thận và cụ thể trong các chủng viện [...] không chỉ để đảm bảo sự am hiểu đầy đủ về các phương tiện truyền thông xã hội, mà còn để nhận ra tiềm năng chắc chắn của chúng trong việc củng cố đối thoại trong đức ái và củng cố các mối dây liên kết hiệp nhất (xem Communio et progressio, số 108, 110, 115-117)."
PHỤ LỤC II
BẢNG CHỈ DẪN CHỦ ĐỀ
LỜI MỞ ĐẦU
Sự phức tạp bề ngoài của Bảng Chỉ dẫn này không nên làm nản lòng hay gây khó khăn cho người đọc. Nó chỉ phản ánh tính chất liên ngành đặc trưng cho khoa học và nghiên cứu về giao tiếp con người, và đặc biệt là khoa học và nghiên cứu về giao tiếp truyền thông đại chúng hiện đại. Đặc biệt khi nghiên cứu về tính phức tạp của truyền thông đại chúng và từng phương tiện riêng lẻ, với mục đích văn hóa nhân bản và đạo đức Kitô giáo. Có thể nói rằng tất cả các ngành khoa học nhân văn, ít nhiều đều gặp gỡ và hòa quyện trong dòng chảy của chúng: từ ký hiệu học, ngôn ngữ học, triết học, tâm lý học, xã hội học, nhân học xã hội và văn hóa... đến sư phạm, giáo dục học, công nghệ, kinh tế, luật, nghệ thuật thị giác, âm nhạc, nghệ thuật kể chuyện và kịch nghệ...; chưa kể đến thần học, đặc biệt là thần học luân lý và mục vụ - trên hết là đối với những người được định hướng cho sứ vụ tông đồ.
Rõ ràng, ngay cả việc nghiên cứu đầy đủ về từng phương tiện truyền thông đại chúng và từng ngành học được đề cập ở trên cũng là điều không tưởng. Không phải ngẫu nhiên mà các chuyên gia sử dụng phương tiện truyền thông đại chúng thường tự giới hạn trong việc nghiên cứu kỹ lưỡng một hoặc một số phương tiện hoặc ngành học phù hợp với sở thích và khả năng văn hóa hoặc nghề nghiệp của riêng họ. Điều này cũng đúng với các công trình xuất bản, chúng thường là các bài luận hoặc nghiên cứu trong những lĩnh vực được lựa chọn. Tuy nhiên, phạm vi cụ thể của Hướng dẫn này, là sự hình thành đồng thời văn hóa nhân bản, đạo đức Kitô giáo cho các linh mục tương lai trong việc sử dụng đúng đắn tất cả các công cụ truyền thông xã hội. Việc sử dụng này trước hết là cho bản thân, sau đó là cho mục vụ, nhất thiết phải liên quan đến một công thức liên ngành đầy đủ. Công thức này bao gồm cả ở cấp độ cơ bản của người tiếp nhận (xem Hướng dẫn, số 16), mà còn và trên hết là ở cấp độ thứ hai: cấp độ mục vụ. Những điều này sau đó trở thành sự chuẩn bị cho hai lĩnh vực riêng biệt. Thứ nhất là chuẩn bị lý thuyết và thực hành cho công việc trong lĩnh vực truyền thông đại chúng: nhà báo, nhà làm phim, người điều hành đài phát thanh và truyền hình, nhà phê bình, v.v., trong khi lĩnh vực còn lại hướng đến sự uyên bác trong học thuật để đào tạo các nhà văn và giáo viên của các ngành học riêng lẻ.
Trong thực tế, trong quá trình đào tạo toàn diện ở cấp độ đầu tiên, cấp độ cơ bản, sẽ tốt hơn nếu chọn lọc từ Bảng Chỉ dẫn này: ít nhất là các số 1-6 về giao tiếp con người nói chung; các số 9-11 về các phương tiện hiện đại; số 12 về sự phát triển thực tế của chúng; các số 13-16 về chức năng của chúng; số 19 về Huấn quyền Giáo hội trong vấn đề này; và số 32 về việc sử dụng truyền thông đại chúng của những người sống đời thánh hiến. Việc trình bày và giải thích có thể được thực hiện đầy đủ trong khoảng hai mươi buổi học hoặc bài giảng vào đầu đời sống chủng viện, và sau đó chúng có thể được cập nhật và áp dụng trong các bài tập thực hành trên các phương tiện truyền thông riêng lẻ (xem Hướng dẫn, các số 15 và 18b), phù hợp với trình độ học vấn của họ và trong suốt thời gian họ ở chủng viện.
Mặt khác, đối với việc đào tạo ở cấp độ thứ hai, cấp độ mục vụ, tất cả các vấn đề cần được xử lý đầy đủ bởi những người có thẩm quyền (xem Hướng dẫn, số 23). Việc xử lý có thể thông qua một số lượng hợp lý các bài học và bài tập được phân bổ phù hợp với tài liệu trong toàn bộ chương trình triết học và thần học (xem Hướng dẫn, số 26), hoặc được cấu trúc riêng biệt trong một chương trình đặc biệt. Trong chương trình này, sinh viên cuối cùng có thể nghiên cứu kỹ lưỡng và viết một luận án cuối cùng về một chủ đề cụ thể ở cấp độ "chuyên ngành". Luận án này sẽ là điều kiện để giảng dạy hai cấp độ đầu tiên (xem Hướng dẫn, các số 9 và 27).
I. TRUYỀN THÔNG CON NGƯỜI
1. Truyền thông chủ ý: Khái niệm và Thuật ngữ. Phần này tập trung vào khái niệm truyền thông có chủ ý, phân tích các thuật ngữ then chốt như ký hiệu học, dấu hiệu/mã, mã hóa/giải mã, chỉ biểu/hàm ý.
2. Tính phù hợp tương đối của việc truyền đạt dấu hiệu/mã. Phần này đánh giá tính phù hợp của việc sử dụng dấu hiệu/mã trong truyền thông, xem xét mối tương quan với nội dung được truyền đạt, đối tượng tiếp nhận, loại hiệu quả mong muốn và phản hồi.
3. Lịch sử phát triển. Thời cổ đại: Truyền thông truyền thống. Phần này khảo sát quá trình phát triển của truyền thông từ thời cổ đại, từ cử chỉ đến lời nói, chữ viết, biểu tượng, chữ cái và bản in.
4. Lịch sử phát triển. Thời kỳ hiện đại: Truyền thông bằng công cụ. Phần này tiếp tục hành trình lịch sử, đi sâu vào sự phát triển của truyền thông thời kỳ hiện đại, từ báo chí, điện ảnh, radio, truyền hình đến giao tiếp kỹ thuật số toàn cầu ngày nay, đồng thời phân tích sự tương tác giữa phát triển công nghệ, nguồn năng lượng và tiến hóa văn hóa xã hội.
5. Nghiên cứu về các công cụ truyền thông xã hội. Phần này tập trung vào việc nghiên cứu các công cụ truyền thông xã hội, bao gồm nguồn gốc, sự phát triển, các lý thuyết, đề xuất và đánh giá kết quả đạt được. Đồng thời, phần này cũng phân tích và so sánh các thuật ngữ hiện hành như phương tiện truyền thông đại chúng, truyền thông đại chúng, nghe nhìn, kỹ thuật thảo luận... và thuật ngữ "công cụ truyền thông xã hội" được Công đồng sử dụng.
6. Một số nền tảng lý thuyết kinh điển. Phần này giới thiệu một số lý thuyết và mô hình truyền thông kinh điển, bao gồm: Kế hoạch/Công thức của H.D. Lasswell; Lý thuyết Thông tin của C.E. Shannon - W. Weaver; Phân tích nội dung của H.D. Lasswell, B. Berelson, A.A. Moles, E. Morin; Dòng chảy truyền thông hai bước của E. Katz - P. Lazarsfeld, R.K. Merton; Lý thuyết phơi bày-nhận thức-ghi nhớ có chọn lọc của J.K. Klapper; "Phương tiện là thông điệp" và "Ngôi làng toàn cầu" của H. Innis và M. McLuhan; "Cú sốc tương lai" của A. Toffer.
7. Các hiện tượng tâm lý xã hội liên quan đến phương tiện truyền thông đại chúng. Phần này phân tích ảnh hưởng của phương tiện truyền thông đại chúng đến các hiện tượng tâm lý xã hội như xã hội hóa, di động xã hội, sự riêng tư, tiếp thu văn hóa và sự hình thành ý kiến đa nguyên.
8. Các quan điểm ủng hộ/phản đối ảnh hưởng văn hóa và đạo đức của các công cụ truyền thông xã hội. Phần này trình bày các quan điểm trái chiều về ảnh hưởng của các công cụ truyền thông xã hội đến văn hóa và đạo đức, bao gồm quan điểm của giới tinh hoa đại chúng, các nền văn hóa "khác biệt", Trường phái Frankfurt (T.W. Adorno, M. Horkheimer, H. Marcuse...) và khả năng dung hòa các quan điểm này.
9. Báo chí. Phần này tập trung vào báo chí, phân tích sự phát triển kỹ thuật từ Gutenberg đến sắp chữ ảnh điện tử, các loại báo chí, khái niệm thông tin/sự kiện hiện tại/"tin tức", tổ chức báo chí trong nước và thế giới, cũng như kỹ năng "đọc" báo.
10. Điện ảnh. Phần này phân tích điện ảnh, bao gồm tiến hóa kỹ thuật, "ngôn ngữ" điện ảnh, mối quan hệ giữa điện ảnh với nghệ thuật và ý thức hệ, các yếu tố của giao tiếp điện ảnh, lý thuyết về gợi ý biểu tượng, nguồn gốc của phim, cơ cấu kinh tế-công nghiệp điện ảnh trong nước và thế giới, kỹ năng "đọc" phim và phê bình phim.
11. Radio - Truyền hình. Phần này tập trung vào Radio - Truyền hình, bao gồm khái niệm kỹ thuật, tiêu chuẩn, chương trình trực tiếp/ghi âm, mối quan hệ với báo chí và điện ảnh, và kỹ năng thưởng thức phê bình radio và truyền hình.
12. Tương lai của truyền thông. Phần này thảo luận về tương lai của truyền thông với sự xuất hiện của điều khiển học, điện tử, tin học và viễn thông, từ bóng bán dẫn, thu nhỏ, laser, đĩa, băng cassette âm thanh/video, máy tính, bộ nhớ, ngân hàng dữ liệu, vệ tinh đến giao tiếp tức thời-phổ biến.
13. Chức năng giải trí. Phần này phân tích chức năng giải trí của các công cụ truyền thông xã hội, bao gồm xu hướng độc quyền, sự tham gia trực tiếp/gián tiếp, chủ nghĩa thoát ly thụ động, "tái tạo" thẩm mỹ-văn hóa và sự chuyển đổi từ thời gian làm việc sang thời gian rảnh rỗi/giải phóng.
14. Chức năng thông tin. Phần này tập trung vào chức năng thông tin, phân tích các khái niệm, thuật ngữ, hệ số tin tức, nguồn, phương tiện, hãng thông tấn trong nước và quốc tế, lịch sử phát triển từ văn hóa giảng dạy đến tính thời sự/từ thực tế đến pháp luật, tình hình và chức năng xã hội của thông tin ngày nay, "trật tự thông tin thế giới" mới và báo cáo của S. Nora - A. Minc - S. MacBride.
15. Chức năng tuyên truyền và quảng cáo. Phần này phân tích chức năng tuyên truyền và quảng cáo, bao gồm khái niệm, thuật ngữ, các hình thức (tự chủ/chèn, rõ ràng/biên tập, trực tiếp/gián tiếp/tiềm thức), áp phích, cơ chế thuyết phục hiện đại, lịch sử phát triển, tiếp thị, tuyên truyền ý thức hệ, khẩu hiệu và sự tương tác giữa quảng cáo và các công cụ truyền thông xã hội ngày nay.
16. Chức năng dư luận. Phần này tập trung vào chức năng dư luận, phân tích các khái niệm, mối quan hệ giữa "ý kiến" và sự thật/chắc chắn, "công khai" và không công khai, phân tích thực tế (yếu tố và nhân tố) của dư luận, lịch sử phát triển, không gian tâm lý xã hội ngày nay, khái niệm sơ đẳng về thăm dò dư luận, điều tra định lượng/động lực và các phương pháp gián tiếp...
II. PHƯƠNG TIỆN TRUYỀN THÔNG VÀ GIÁO HỘI
17. Sự kiện tôn giáo như một hình thức truyền thông. Phần này xem xét sự kiện tôn giáo như một hình thức truyền thông dưới góc độ nhân học văn hóa, từ truyền thống truyền miệng đến truyền thống ghi chép trong Kinh Thánh Cựu Ước, căng thẳng xã hội-tôn giáo phổ biến vào thời Chúa Giêsu, từ truyền bản thảo đến truyền bá in ấn trong Giáo hội thời kỳ đầu, và các vấn đề xã hội-văn hóa và chính trị-tôn giáo nảy sinh từ kỹ thuật in của Gutenberg. Cuối cùng, phần này thảo luận về mối quan hệ giữa truyền thông và Giáo hội trong kỷ nguyên của các phương tiện truyền thông xã hội.
18. Thực hành và kỷ luật của Giáo hội trong quá khứ: Liên quan đến các phương tiện thể hiện/truyền thông truyền thống. Phần này xem xét cách thức Giáo hội tiếp cận các hình thức truyền thông truyền thống như nghệ thuật tạo hình, sân khấu, bản thảo và nguồn gốc của việc kiểm duyệt (mang tính đàn áp và phòng ngừa). Phần này cũng phân tích cách thức Giáo hội tiếp cận với báo chí, điện ảnh và radio-truyền hình, từ sự dè dặt ban đầu đến chấp nhận dần dần, từ nội dung đến công cụ, và những lo ngại liên quan đến xã hội thông tin và ngân hàng dữ liệu.
19. Phương tiện truyền thông đại chúng và Huấn quyền. Phần này phân tích mối quan hệ giữa phương tiện truyền thông đại chúng và Huấn quyền, tập trung vào đặc điểm và giá trị của cả hai. Phần này cũng phân tích các văn kiện quan trọng của Huấn quyền liên quan đến truyền thông, bao gồm: Vigilanti cura của Đức Piô XI; các bài phát biểu về lý tưởng điện ảnh và Miranda prorsus của Đức Piô XII; Inter mirifica của Công đồng Vatican II; Tông huấn Communio et Progressio; và Bộ Giáo luật hiện hành.
20. Hướng tới một nền thần học về các phương tiện truyền thông xã hội. Phần này đặt ra câu hỏi về sự cần thiết và hữu ích của một nền thần học về các phương tiện truyền thông xã hội. Phần này cũng thảo luận về những điều kiện tiên quyết cho một nền thần học như vậy, các đề xuất đã được đưa ra, và các yếu tố liên quan trong Huấn quyền, từ Miranda prorsus đến "luận đề" và mô hình của Communio et Progressio.
III. TIẾP CẬN MỤC VỤ ĐỐI VỚI PHƯƠNG TIỆN TRUYỀN THÔNG ĐẠI CHÚNG
21. Quyền lợi và bổn phận cố hữu của Giáo hội: sử dụng và dạy về phương tiện truyền thông. Phần này khẳng định quyền lợi và bổn phận cố hữu của Giáo hội trong việc sử dụng và giáo dục về phương tiện truyền thông. Nội dung bao gồm bản chất, phạm vi, chủ đề liên quan đến truyền thông; các điều kiện kỹ thuật, pháp lý, thực tế cho việc sử dụng hiệu quả phương tiện truyền thông; và sự hỗ trợ/trợ cấp cần thiết.
22. Các điều kiện để sử dụng phương tiện truyền thông hiệu quả. Phần này nhấn mạnh tầm quan trọng của tính toàn cầu, sự hợp tác và chia sẻ chuyên môn giữa các thành phần trong Giáo hội (giáo sĩ, tu sĩ và giáo dân). Việc cập nhật thông tin, trang thiết bị hiện đại và nguồn lực kinh tế đầy đủ cũng được đề cập. Phần này cũng nhấn mạnh lựa chọn ưu tiên cho cách tiếp cận tích cực hơn là tiêu cực, đào tạo con người và Kitô giáo cho người tiếp nhận, người truyền bá và chính những người làm mục vụ.
23. Các tổ chức Giáo hội. Phần này đề cập đến các cơ quan và dịch vụ, cơ cấu và chức năng, điều kiện hoạt động hiệu quả của các tổ chức Giáo hội liên quan đến truyền thông. Cụ thể, phần này đề cập đến vai trò của Ủy ban Giáo hoàng về Truyền thông Xã hội trong Giáo triều La Mã; các tổ chức quốc tế như UCIP (Hiệp hội Báo chí Công giáo Quốc tế), OCIC (Tổ chức Điện ảnh Công giáo Quốc tế) và UNDA (Hiệp hội Phát thanh - Truyền hình Công giáo Quốc tế); và các văn phòng tương ứng ở cấp quốc gia và giáo phận.
24. Phương tiện truyền thông đại chúng và rao giảng. Phần này phân tích mối liên hệ giữa phương tiện truyền thông đại chúng và rao giảng, bao gồm cách thức diễn đạt và cử chỉ. Những nghi ngại về hiệu quả của lời nói trực tiếp và phương tiện kỹ thuật được đề cập và giải đáp dựa trên Huấn quyền, cụ thể là trong Inter mirifica, Communio et Progressio, Thư mục Mục vụ của các Giám mục, Thư mục Giáo lý chung và Bộ Giáo luật mới. Phần này nhấn mạnh tầm quan trọng của việc "rao giảng" chứ không phải tuyên truyền-quảng cáo, truyền tải "thông điệp" chứ không phải đề cao cá nhân.
25. Các công cụ hỗ trợ mục vụ gần gũi với phương tiện truyền thông đại chúng. Phần này liệt kê và giới thiệu các công cụ hỗ trợ mục vụ gần gũi với phương tiện truyền thông đại chúng, bao gồm sân khấu, nghệ thuật tạo hình, xuất bản và đồ họa, bài hát và âm nhạc, đĩa và băng cassette, phương tiện truyền thông nhóm, đa phương tiện và mini.
26. Phương tiện truyền thông đại chúng, phụng vụ và cử hành các bí tích. Phần này thảo luận về các vấn đề liên quan đến việc phát sóng, "hiện diện" và tham dự trong bối cảnh phụng vụ và cử hành các bí tích. Các quy định hiện hành, đặc biệt là liên quan đến Thánh lễ, được đề cập. Phần này cũng nêu ra các trường hợp mở như vai trò của phát thanh-truyền hình trong bí tích hôn phối và bí tích giải tội, "tham dự" vào Hy tế Thánh Thể qua phương tiện truyền thông, và khả năng ban hành các quy định mới trong tương lai.
27. Thông tin (giả định đã biết các khái niệm ở số 14). Phần này đề cập đến quyền được thông tin được công bố trong các Hiến chương Quốc tế và Châu Âu, cũng như trong các tài liệu gần đây của Huấn quyền. Nội dung bao gồm cơ sở, chủ đề, phạm vi và giới hạn của quyền được thông tin; nghĩa vụ tương ứng của người cung cấp và người tiếp nhận thông tin; tính khách quan - sự thật và đầy đủ của thông tin "trung thực"; đạo đức nghề nghiệp cho người làm công tác thông tin ở các cấp độ khác nhau; bổn phận và thực hành liên quan đến việc tự mình tìm hiểu về các vấn đề về quyền/luật. Trong lĩnh vực viễn thông: quyền/bổn phận liên quan đến quyền riêng tư và ngân hàng dữ liệu.
28. Tuyên truyền/Quảng cáo (giả định đã biết các chủ đề ở số 15). Phần này thảo luận về vấn đề đạo đức và mục vụ liên quan đến tuyên truyền (ý thức hệ): độc quyền và độc quyền oligopole trong phương tiện truyền thông đại chúng và tuyên truyền phản bác. Về quảng cáo: các câu hỏi mở - hành vi nghề nghiệp liên quan đến nội dung, phương pháp thuyết phục, ưu tiên cho một số phương tiện truyền thông nhất định và đe dọa sự tồn tại của các phương tiện truyền thông khác. Đối với người tiếp nhận: chống lại chủ nghĩa tiêu thụ và "đại chúng hóa".
29. Dư luận (giả định đã biết các khái niệm ở số 16). Phần này phân tích tầm quan trọng về mặt xã hội, đạo đức và tôn giáo của hiện tượng dư luận, và từ đó, trách nhiệm/bổn phận cá nhân của "người hình thành", "người điều hướng" và "người truyền tải" dư luận. Vai trò của những người có ảnh hưởng đến dư luận. Quan hệ công chúng. Xác định và khai thác các phương tiện hợp pháp và hợp lý, hay chỉ là "phương tiện hiệu quả".
30. Một câu hỏi thần học-mục vụ liên quan đến phương tiện truyền thông đại chúng: thông tin trong Giáo hội. Kỷ luật của bí mật, hay "Thành phố trên núi"? Nhìn lại lịch sử và lý do tại sao thông tin ngày nay nên được cung cấp một cách tự nhiên. Quyền, bổn phận và điều kiện để thông tin có giá trị trong Huấn quyền hậu Công đồng. Thực hành: văn phòng và phương tiện thông tin trong Giáo hội: phương tiện và nhân sự.
31. Các câu hỏi mở khác về phương tiện truyền thông đại chúng: cái gọi là "dư luận" trong Giáo hội. Không gian bày tỏ ý kiến, kể cả ý kiến thần học, trong Giáo hội. Sự khác biệt giữa đối thoại tự do về các vấn đề ý kiến và "dư luận" trong Huấn quyền. Sự biện minh, chủ đề, điều kiện và "nơi chốn" thích hợp cho điều đầu tiên. Các yếu tố chống lại điều thứ hai: chủ đề, đối tượng, động lực đào tạo, động lực va chạm. "Dư luận" và hiệu quả của Huấn quyền ngày nay.
32. Phương tiện truyền thông đại chúng và những người sống đời thánh hiến. Sự phát triển của thái độ kỷ luật: "không thuộc về thế gian", "ở trong thế gian nhưng không thuộc về thế gian". Giả định về nguy hiểm và thăng tiến con người-mục vụ. Các quy tắc từ bên ngoài và kỷ luật cá nhân. Sự lựa chọn về số lượng và chất lượng, lựa chọn cộng đồng và cá nhân. Sửa chữa và bù đắp.
33. Thích nghi mục vụ chung: Giảng dạy. Trong nền văn hóa kỹ thuật-hình ảnh đại chúng: lý tưởng nhân văn bị biến đổi, trung tâm quan tâm của người tiếp nhận khác nhau: phương thức biểu đạt-giao tiếp và quy trình logic thay đổi: từ suy diễn sang quy nạp. Tuy nhiên, làm thế nào để đạt được sự chắc chắn cần thiết.
34. Thích nghi mục vụ chung: Giáo dục. Trong cuộc khủng hoảng về thẩm quyền: từ các quy tắc áp đặt đến thuyết phục bằng thảo luận. Trong một môi trường không còn bảo vệ: từ phòng thủ bên ngoài đến phòng thủ bên trong có được. Trong các tình huống xã hội hóa tiên tiến: đạo đức và tâm linh từ chủ nghĩa cá nhân sang chủ nghĩa cộng đồng.
IV. TIẾP CẬN MỤC VỤ ĐỐI VỚI TỪNG LOẠI HÌNH TRUYỀN THÔNG
35. Báo chí (bổ sung cho những gì đã nêu ở số 9). Một nền báo chí trung thực. Nhà báo và sự can thiệp của Nhà nước: bảo vệ, ngăn chặn, đàn áp và can thiệp vào quyền sở hữu: đồng chỉ đạo và quản lý chung, và tự do ngôn luận-bày tỏ ý kiến; can thiệp từ nhà quảng cáo. Trách nhiệm xã hội của người tiếp nhận. Báo chí Công giáo; hiểu biết ngày nay về thuật ngữ này và mục tiêu thích hợp. Cơ quan "chính thức" của hệ thống cấp bậc, hay của ý kiến? Để thông tin hay để rao giảng? Vấn đề của người làm báo, nhiệm vụ của độc giả. Diễn đàn thảo luận (trang thư độc giả).
36. Điện ảnh (bổ sung cho những điểm đã đề cập ở số 10). Cân nhắc về mặt đạo đức và mục vụ liên quan đến thực tế điện ảnh: làm việc trong sản xuất-phân phối-quản lý? Phim bổ ích và phim tôn giáo. Rạp chiếu phim Công giáo. Tính đạo đức của các mục được quay: hành vi thực tế của con người và cách thể hiện; luận điểm của một bộ phim và các chi tiết gợi ý. Hoàn cảnh đạo đức của người xem: lựa chọn phim và các quy tắc liên quan đến "phân loại phim". Phê bình phim và văn hóa điện ảnh. Diễn đàn điện ảnh.
37. Phát thanh/truyền hình (bổ sung cho những điểm đã đề cập ở số 11). Xã hội đa nguyên ngày nay, các chương trình liên quan và khả năng lựa chọn. Lập trường của các nhà giáo dục. Trách nhiệm của người tiếp nhận (phản hồi). Những người quảng bá chính trực và "người Công giáo" trong các chương trình phát sóng phổ thông: lương tâm và năng lực. Cố vấn giáo hội. Các chương trình "Công giáo": khả năng và giới hạn. Diễn đàn phát thanh và truyền hình.
GHI CHÚ TRÍCH DẪN TRONG VĂN KIỆN:
1. Cf. Pius XII’s, Miranda prorsus, 24-25.
2. Cf. Vatican Council II, Dei verbum, 4 and 7.
3. Cf. Vatican Council II, Inter mirifica, 1
4. Pius XII, Miranda prorsus, 1.
5. Pius XI, Vigilanti cura, 1.
6. Vatican Council II, Inter mirifica, 2
7. Pastoral Instruction Communio et Progressio, 11
8. Ibid., 8
9. Cf. Appendix 1.
10. Ratio Fundamentalis Institutionis Sacerdotalis, 68; cf. Appendix I, no. 18.
11. Pastoral Instruction Communio et Progressio, 111; cf. Appendix I, no.22.
12. Communio et Progressio, 183; viết: “huấn thị Mục vụ này đưa ra một vài hướng dẫn sau khi đã cân nhắc tình hình chung đang phổ biến trong truyền thông xã hội. Như mọi điều xảy ra vào lúc này, không cần phải lý luận và trình bày chi tiết nhiều hơn… Hiển nhiên các hướng dẫn và áp dụng thực hành, cũng như hướng dẫn mục vụ phải thích nghi với những điều kiện khác nhau trong những nơi khác nhau – phụ thuộc vào tiến bộ kỹ thuật và tình huống xã hội. Nó sẽ thay đổi tùy theo điều kiện đang thay đổi của phương tiện truyền thông và những luật lệ vốn có… Những người có trách nhiệm lập kế hoạch mục vụ phải uyển chuyển và luôn cố gắng theo kịp các phát minh trong lãnh vực này.
13. Bản dự thảo thứ hai cho các Giám Mục về văn kiện truyền thông xã hội, được thảo luận trong phòng hội trong phiên họp thứ nhất có tuyên bố sau: “Nesessarium visum est Secretariatus sodalibus peritorum in hac re virorum sententiae obsecundare atque ad designanda nova haec inventa nomen proponere INSTRUMENTA COMMUNICATIONIS SOCIALIS, in posterum etiam in iurisprudentia ecclesiastica et in pastoralibus documentis utendum. Quod nomen, in primis annuit instrumentorum originem cum technicis artibus conexam; deinde actionem instrumentalem qua contentum spirituale, ab auctore humano compositum, aliis communicatur; deinde vim quam celeriter in totam societatem exercet" (Acta Synodalia S.ti Concilii Oecumenici Vaticani II, Vol. V, Periodus Prima, Pars III, p. 375).
14. Trong chín điều (canons) nói về đề tài (cv. Appendix I, 41) bảy điều sử dụng chính xác từ “công cụ truyền thông xã hội”: 761, 779, 804, 822, 823, 1063 và 1369. Chỉ trong điều 666 và 747 sử dụng từ kém chính xác media.
15. Những người viết dự thảo hiểu từ xã hội hóa (socialization) theo nghĩa được chấp thuận bởi Gioan XXIII trong thông điệp Mater er Magistra, “Một trong những khía cạnh đặc biệt của thời đại chúng ta là sự xã hội hóa…: con người sống trong một cộng đồng liên hệ với nhau bằng nhiều cách thức tiến bộ, cộng tác với nhau trong nhiều phương cách của đời sống và hoạt động, trong một bối cảnh định chế hóa công hay tư”; từ này sau đó được dùng trong Gaudium et Spes, 6, 25, 24 và 75. Như vậy công cụ truyền thông xã hội được coi như những yếu tố chính trong sự xã hội hóa, đó là một quan điểm, quan điểm khác là sự giao lưu giữa các nhóm con người đã được xã hội hóa mạnh.
16. Chú ý đã được rút ra từ cách dùng chính xác hơn của hội nghị, không có phản đối cách dùng này, để ngắn gọn, nhiều người thích dùng mass media (và massmediology). Thực sự, cách này được sử dụng trong vài văn kiện như Magisterium và Hướng dẫn này.
17. Inter mirifica, 16; cf. Appendix I, no.11.
18. Communio et Progressio, 106 và 111; cf. ibid, no.22.
19. Hãy luôn nhớ rằng những gì Sắc Lệnh Công Đồng tuyên bố, dạy, hay đề nghị là nói về những công cụ này. Ví dụ: việc sử dụng “các công cụ truyền thông xã hội trong nhiều hình thức làm việc tông đồ”, liên quan tới nhiệm vụ “giảng dạy” (no. 13), và liên quan tới Ngày Thế Giới hàng năm “để củng cố một cách hiệu quả hơn các hình thức tông đồ của Hội Thánh trong lãnh vực truyền thông xã hội” (no.18);
20. Inter mirifica, 9. Về chủ đề, cf. Appendix I, no 7: 59 sq.: 9: 703; 11: 3, 9, 16; 19; 22:15sq
21. “Cha mẹ phải quan tâm tới bổn phận coi sóc cẩn thận, để các màn trình diễn, sách vở, tấn công đức tin và luân lý không xâm nhập vào gia đình và cũng không để cho con cái gặp phải những điều này ngoài gia đình của mình” (Inter mirifica, 10). “Cha mẹ và thầy dạy nên thúc giục con cái tự mình quyết định ngay cả khi nhà giáo dục đôi khi dành lấy quyền quyết định cuối cùng” (Communio et Progressio, 67). “Một điều có lợi cho nhà giáo dục là ghi lại một số những chương trình phát, phim, và các ấn phẩm mà giới trẻ họ coi sóc thích. Sau đó họ sẽ thảo luận với chúng và điều này giúp phát triển khả năng phê bình của trẻ. Đối với những sản phẩm khó hay thậm chí gây tranh cãi, cha mẹ nên vào lúc thuận tiện giúp con cái mình khám phá ra các giá trị nhân bản trong sản phẩm và giải thích các chi tiết bên trong bối cảnh chung của tác phẩm” (ibid, 68)
22. “bổn phận của giáo lý là giáo dục người Kitô hữu phân biệt tính chất và giá trị của những gì được truyền thông đại chúng đưa ra”.
23. Xem Appendix I, nos. 11: 16-22: 69, 117; 33.
24. Communio et Progressio, 67; cf. ibid, no.22.
25. Xem Ratio fundamentalis, no. 89, và Communio et Progressio, 66 (trong Appendix I nos 18 và 22: 66).
26. “Đào tạo phải bao gồm một sự suy nghĩ thực hành về bản chất đặc biệt của mỗi phương tiện và về chỗ đứng của nó trong cộng đồng địa phương và làm sao để có thể sử dụng nó tốt nhất” (Communio et Progressio, 64)
27. “truyền thông đa phương tiện có thể đào sâu và làm phong phú văn hóa đương thời… và cũng làm cho nó có thể phục vụ cho những nhu cầu và sự quan tâm khác nhau, bằng cung cách hấp dẫn và chuyên nghiệp, nó có thể tạo ra được kết quả gồm đủ mọi loại cách diễn đạt nghệ thuật. Người ta có thể sử dụng đa phương tiện truyền thông một cách dễ dàng để làm sâu sắc và tinh luyện đời sống văn hóa, bao lâu họ bổ sung việc sử dụng này với sự thực hành suy nghĩ của bản thân và trao đổi quan niệm của mình với người khác” (Communnio et Progressio, 50). “Đa phương tiện là những yếu tố mới trong văn hóa hiện đại … nhưng cùng với việc làm phong phú văn hóa, nó có thể hạ thấp nó. Nó có thể được chơi vì sự vỗ tay khen ngợi của mức văn hóa thấp kém nơi khán giả. Và bởi vì người ta sử dụng nhiều thời gian với nó, nó có thể làm cho con người xao lãng việc theo đuổi văn hóa bậc cao và hữu ích. Chế độ ăn toàn những sản phẩm văn hóa thấp kém trong dân chúng sẽ có khuynh hướng hạ thấp thị hiếu những người đã đạt được một nền văn hóa cao”.
28. “Sự trung thành với các tiêu chuẩn luân lý… đòi hỏi họ (người tiếp nhận) phải tìm ra không trì hoãn cách thức phân loại do người có thẩm quyền và để lương tâm của mình được hướng dẫn theo” (Inter mirifica, 9). “Phê bình các chương trình phát thanh, truyền hình và phim ảnh là một việc có ích trong giáo dục tôn giáo và văn hóa. Nó giúp cho sự lựa chọn các sản phẩm truyền thông, đặc biệt là đối với gia đình. Kế tiếp theo điều này là sự chú ý đặc biệt đến các phê bình có giá trị thật sự. Những phê bình này bao gồm việc đánh giá giá trị, luân lý và giá trị Kitô Giáo của phim ảnh, phát hình, phát thanh và những bài viết. Những phê bình này được đặt dưới sự coi sóc mục vụ của các giám mục sở tại do một ban được chỉ định” (Communio et Peogressio, 122).
29. GIOAN PHAOLÔ II, Huấn từ cho nữ tu. L’Observatore Romano, 12th November 1978.
30. Hãy luôn ghi nhớ, đặc biệt, những tiêu chuẩn được Đức Giáo Hoàng PHAOLÔ VI đưa ra trong Sacerdotalis caelibatus, và được Thánh bộ nhắc lại để đưa vào thực hành: xem Appendix I, nos. 4, 16, 23; tổng quát cho sử dụng cá nhân, nos. 7: 154; 8; 12: 4; 17; 39; 41: canon 666.
31. “Nhiệm vụ của bề trên là phải huấn luyện cho tuổi trẻ sự tin tưởng phó thác vào Đức Kitô và vâng lời thực sự, người đã đòi hỏi sự vâng phục của những người đi theo mình, Người đã tự mình nêu gương nhân đức này và làm cho chính mình trở thành nguyên tắc của sự vâng phục trong chúng ta” (Ratio fundamentalis, no 49). “Hãy để họ học vun trồng tinh thần nghèo khó rất cần thiết trong khi thi hành sứ vụ một cách kiên trì… dù họ không bắt buộc phải từ bỏ của cải vật chất như tu sĩ, nhưng họ nên cố gắng thủ đắc sự tự do thực sự và làm người con ngoan của Chúa, như một người của thần linh, kế thừa tài sản thiêng liêng cần thiết cho mối quan hệ đúng đắn với thế giới và của cải vật chất. Noi gương Chúa Kitô, họ cũng quen với sự từ bỏ những gì là phù phiếm, họ nên có khả năng làm chứng nhân cho tinh thần khó nghèo, đơn giản và khổ hạnh trong đời”.
32. Xem Appendix I, nos. 7: 151; II: 15; 18: 68; 22: 106 sqq.; 35.
33. VATICAN COUNCIL II, Ad gentes divinitus, nos. 16, 19, 22; Gaudium et spes, nos. 44, 58, 62; Unitatis redintegratio, nos. 4, 17; Orientalium Ecclesiarum, nos. 4, 5, 6; Pius XII, Encycl. Evangelii praecones, 2nd June 1951: AAS, 43 (1951), pp. 521sqa.; JOHN XXIII, Encycl. Princeps Pastorum, 28th November 1959: AAS, 51 (1959), pp. 843 sqq.; PAUL VI, homily Hi amicti sunt, at canonization of the Uganda Martyrs, 18th October 1964; Insegnamenti, II, pp. 588-589; Motu proprio Ecclesiae Sanctae, 6th August 1966: AAS, 58 (1966), p. 786, III, no. 2; Discourse Greetings to you to the bishops of Asia, 28th November 1970: Insegnamenti, VIII, pp. 1215 sqq.; JOHN PAUL II, Apost. Const. Sapientia christiana, 15th April 1979: AAS, 71 (1979), pp. 472 sqq., 492 (Foreword and art. 68); Discourse Vous êtes to the bishops of Zaire meeting in Kinshasa, 3rd May 1980: Insegnamenti, III, 1, pp. 1084 sqq.; Discourse I am overjoyed, to the bishops of Nigeria, 5th February 1982: Insegnamenti, V, 1, pp. 463 sqq.
34. “Không có kiến thức này, việc tông đồ hiệu quả không thể thực hiện được trong một xã hội càng ngày càng được định hình bởi đa phương tiện” (Communio et Progressio, 111, điều này gợi nhớ đến Ratio Fundamentalis, par. 4 and no. 88). “Con người hiện đại chìm ngập trong thủy triều truyền thông xã hội khi họ định hình niềm xác tín sâu xa và tỏ thái độ của mình. Đây là niềm xác tín tôn giáo và thái độ thực sự cho dù nó như thế nào”. Nhưng vào ngày 16 tháng 06 năm 1957 CONGREGATION OF THE COUNCIL nêu lên một điểm về vấn đề này: “au sein d'un monde qui se renouvelle, et dont les techniques modernes ont bouleversé la face... d'adapter les méthodes (de l'enseignment religieux) aux conditions psychologiques de l'homme d'aujourd'hui”. PHAOLO VI, trong thông điệp gửi ngày Thế Giới lần thứ 8, 16 tháng năm 1974 (L’Observatore Romano, 17th May 1974), nói về cuộc tìm kiếm phương pháp tông đồ”; và trong bài nói ngày 22 tháng sáu 1974 (L’observatore Romano, 23th June 1974) kêu gọi sự vâng phục đối với “một sự huấn luyện mục vụ: tìm kiếm và đặt câu hỏi làm thế nào để phục vụ hữu hiệu thế giới trong đó chúng ta được kêu gọi và làm việc nhân danh Chúa Kitô; và một sự huấn luyện tín lý… được thích nghi với thời đại, để giúp tiến tới sự am hiểu thế giới tốt hơn”.
35. “Thế giới truyền thông ngày nay phát triển hết sức phức tạp, sự phát triển mà kết quả tối hậu của nó không thể nào tiên liệu được, và trong thế giới phức tạp này chúng ta gặp không chỉ vài vấn đề, nối kết với sự phức tạp của trật tự thế giới mới về công nghệ thông tin và truyền thông, đan xem với các triển vọng mở ra do sự sử dụng vệ tinh và chinh phục không gian. Chúng ta đang nói về một cuộc cách mạng không những bao hàm sự thay đổi trong hệ thống và kỹ thuật truyền thông mà còn bao gồm toàn bộ thế giới quan văn hóa tinh thần của con người… Báo chí, sách vở, đĩa, phim truyền thanh, truyền hình và máy vi tính phức tạp, những thứ này tiêu biểu cho sự vấn đề quan trọng trong tiếp xúc, có thể nói không phải là duy nhất, giữa người trẻ và thực tại bên ngoài, nơi đó họ sống cuộc sống thường ngày của mình” (GIOAN PHAOLO II, Thông điệp nhân ngày Truyền Thông Thế Giới, 15 tháng tư 1985).
36. Inter mirifica ‘s (no.14) “Kịch nghệ ngày nay được tiếp cận rộng rãi nhờ phương tiện truyền thông hiện đại” được lặp lại trong communio er progressio (no. 158): “kịch nghệ ngày nay vẫn còn thu hút một số đông khán giả, không chỉ những người đi tới rạp hát mà còn những người theo dõi kịch trên truyền thanh và truyền hình”.
37. Chính con người phải được cứu thoát: chính nhân loại phải được đổi mới. Vì vậy chính con người là chủ điểm của cuộc thảo luận này, con người toàn diện, với thân xác và linh hồn, tâm hồn và lương tâm, trí tuệ và ý chí” (Gaudium et Spes, 3).
38. CONGREGATION FOR CATHOLIC EDUCATION, tài liệu về đào tạo linh mục tương lai, 22nd February 1976, nos 76, 77.
39. Communio et Progressio, 8. Note also no.6: “những kỹ thuật tiên tiến này có mục đích cao quí là làm cho con người tiếp xúc gần gũi hơn”; no.11: “Truyền thông còn hơn là diễn tả ý tưởng và tình cảm. Ở mức độ sâu xa nhất, nó là cho đi chính mình trong tình yêu”; no. 73: “Mục đích của truyền thông xã hội là đẩy nhanh mọi tiến bộ và nâng cao sự hợp tác giữa con người cho tới khi đạt được sự thông hiệp với nhau”; và sau cùng, no. 102: “Hội Thánh hi vọng rằng … phẩm giá của con người, cả người truyền thông và người nhận truyền thông, sẽ được hiểu và tôn trọng. Bằng cách này, ảnh hưởng xã hội lẫn nhau làm nên người láng giềng sẽ dẫn đến một sự hiệp thông thực sự.”
40. Inter mirifica, 18 và Communio et Progressio: “Mọi người tin vào Chúa được mời gọi dùng một ngày đặc biệt trong năm để cầu nguyện và suy nghĩ về tương lai và những vấn đề về đa phương tiện truyền thông. Họ cũng được kêu mời gặp gỡ với mọi ngành nghề khác” (no.100); “Ngày này được lập ra để tôn vinh những chuyên gia truyền thông và kể khuyến khích họ hợp tác” (no. 167). Xem thêm Phục lục I, nos. 18 và 38.
41. Xem Communio et Progressio, 106 và 111.
42. Cũng không loại trừ trường hợp “sinh viên Công Giáo có thể tới những trường dạy những môn thực hành, như… đa phương tiện truyền thông, xã hội học tôn giáo ở chừng mực môn này tôn trọng sự kiện … Chính bề trên sẽ sắp xếp điều này, sau khi lấy ý kiến của sinh viên, căn cứ vào nội qui chủng viện và những tiêu chuẩn đặt ra do Đấng bản quyền, người có thẩm quyền quyết định về điều này” (Ecumenical directory, no. 92, 13th April 1970: AAS, 62 [1970], p. 705.
43 Xem Inter mirifica, 24 và Communio et Progressio, 187