Skip to content
Main Banner
LỄ CÁC THÁNH NAM-NỮ (01/11) - Triết III bắt đầu nộp đề tài, dàn bài tiểu luận. (04/11) - HỌP HỘI ĐỒNG QUẢN TRỊ (16/11) - HỘI THẢO CHUYÊN ĐỀ THẦN (23/11) - LỄ ĐỨC MARIA VÔ NHIỄM (nghỉ bù) (09/12) - Tiết học cuối của học kì I (10/12) - Ôn thi học kì I (16/12)

Truyền Thông Truyền Giáo

BTT HOCVIEN OFMVN
2024-05-14 18:22 UTC+7 797
“Truyền Thông Truyền Giáo” nêu bật tầm quan trọng của truyền thông trong sứ mệnh truyền giáo của Giáo hội, xem truyền thông không chỉ là một phần mà là yếu tố không thể thiếu trong việc rao giảng Tin Mừng. Truyền thông không chỉ giới hạn ở việc sử dụng phương tiện đại chúng mà còn bao gồm truyền thông cá nhân và nhóm. Sự phát triển của công nghệ đòi hỏi Giáo hội phải áp dụng các phương tiện và phương pháp mới trong việc loan báo Tin Mừng.

Nguyên tác: George Plathottam SDB. Missionary Communication. In Communication for Pastoral Leadership, Book 3: Theological Perspectives in Social Communication. New Delhi: Don Bosco Communication India. 2010. Pages 104-108. ISBN: 978-81-87060-43-7

Chuyển ngữ: Lm. Phêrô Nguyễn Văn Dũng, OFM

 

Việc rao giảng Tin Mừng về tình yêu thương của Thiên Chúa dành cho muôn loài, được thể hiện qua cuộc đời, cái chết và sự phục sinh của Chúa Kitô, là điều thống nhất và tạo nên ý nghĩa cho mọi khía cạnh khác trong đời sống của Giáo hội. Điều này đặc biệt đúng với việc truyền giáo: truyền thông không chỉ là một khía cạnh của việc truyền giáo; thiếu vắng truyền thông, việc truyền giáo không thể diễn ra. Sứ mệnh, theo cách nói thông thường, là một nhiệm vụ cụ thể cần được hoàn thành. Thông thường, nhiệm vụ này được giao phó cho một số người như một mệnh lệnh. Trong thần học Kitô giáo, 'sứ mệnh' là sự tham gia vào sứ mệnh của Thiên Chúa, missio Dei. Nhà truyền giáo là người được Thiên Chúa sai đến. Theo Bosch (1991), “sứ mệnh là sự tham gia của các Kitô hữu vào sứ mệnh giải phóng của Chúa Giêsu. ...Đó là Tin Mừng về tình yêu thương của Thiên Chúa, được thể hiện qua lời chứng của một cộng đồng, vì lợi ích của thế giới.”.”

Truyền thông là trọng tâm trong sứ mệnh của Giáo hội ngay từ những ngày đầu của Kitô giáo. Dưới quyền năng của Chúa Thánh Thần, các Tông đồ đã rao giảng cho những người chưa từng được nghe Tin Mừng của Chúa Kitô. Sách Công vụ các Tông đồ và các Thư của thánh Phaolô đã mở ra lịch sử về việc thực hiện sứ mệnh mà Chúa đã giao phó cho họ. Lịch sử tiếp nối của Giáo hội qua nhiều thế kỷ được ghi dấu bởi những nỗ lực của vô số nhà truyền giáo và nhà giảng thuyết, những người được dẫn dắt bởi quyền năng của Chúa Thánh Thần, đã dũng cảm vượt qua khó khăn, thậm chí đối mặt với cái chết để thực hiện nhiệm vụ này. Họ sẵn sàng trả bất cứ giá nào để rao giảng Tin Mừng.

Truyền thông truyền giáo không giới hạn trong việc sử dụng các phương tiện truyền thông đại chúng mà bao gồm các chiều kích khác nhau của truyền thông, bao gồm truyền thông cá nhân, nhóm và đại chúng. Ngày nay, với sự phát triển nhanh chóng của truyền thông được hỗ trợ bởi các phát minh công nghệ, truyền thông Kitô giáo đang bị thử thách phải áp dụng những phương tiện và phương pháp mới này. Chúng bao gồm công nghệ kỹ thuật số, không gian mạng và internet. Bên cạnh việc truyền giáo ad gentes, sứ mệnh truyền thông Tin Mừng của Giáo hội còn bao gồm việc tân Phúc Âm hóa, tái truyền giáo và đào tạo đức tin.

Nhiệm vụ truyền thông Tin Mừng được trao phó cho tất cả mọi người. Không chỉ Giáo hội với tư cách là một tổ chức và các vị lãnh đạo của Giáo hội là những người mang sứ mệnh truyền giáo, mà mỗi Kitô hữu đã lãnh nhận Bí tích Rửa tội đều là một nhà truyền giáo. Điều 38 của Thượng Hội đồng Giám mục về Lời Chúa (Celli, 2009) nhắc nhở chúng ta về điều này: Qua Bí tích Thanh Tẩy, Sứ mệnh loan báo Lời Chúa là trách nhiệm của tất cả các môn đệ của Chúa Giêsu Kitô. Nhận thức này cần được thấm nhuần sâu sắc trong mỗi giáo xứ, trong mỗi cộng đoàn và tổ chức Công giáo: họ phải tìm ra những cách thức để đưa Lời Chúa đến với mọi người, đặc biệt là những người đã được rửa tội nhưng chưa được học hỏi về Chúa một cách đầy đủ. Lời Chúa đã hóa thành xác phàm để thông truyền chính mình cho tất cả mọi người; do đó, một cách đặc biệt để thấu hiểu Lời Chúa là gặp gỡ những chứng nhân sống động của Ngài, những người làm cho Lời Chúa trở nên hiện diện và sống động.

Điều 38 này tiếp tục nhấn mạnh rằng truyền thông không chỉ đơn thuần là một hoạt động diễn đạt bằng lời nói mà đúng hơn, hầu hết mọi khía cạnh trong đời sống Giáo hội đều mang chiều kích truyền thông. Giáo hội luôn xem các phương tiện truyền thông khác nhau như là ‘những Món Quà của Thiên Chúa’ và là những công cụ hữu hiệu để rao giảng Tin Mừng. Giáo hội không chỉ khuyến khích việc sử dụng các phương tiện truyền thông khác nhau, mà trong quá khứ Giáo hội còn tiên phong trong việc cổ vũ cho những loại hình như nghệ thuật, kịch nghệ, âm nhạc, báo chí và phát thanh.

Các phương tiện truyền thông đại chúng được nâng tầm bởi công nghệ thông tin và truyền thông (ICT) mới đóng vai trò quan trọng trong sứ mệnh truyền thông của Giáo hội, nhưng chúng không phải là cách duy nhất để rao giảng Tin Mừng. Việc Giáo hội ưu tiên sử dụng thuật ngữ ‘truyền thông xã hội’ nhằm nhắc nhở chúng ta rằng mọi mặt trong đời sống Giáo hội đều có chiều kích truyền thông và truyền thông không chỉ là việc sử dụng các phương tiện truyền thông đại chúng hay các phương tiện truyền thông mới mẻ.

Tuy nhiên, Thượng Hội đồng cũng rất chú trọng đến các khía cạnh văn hóa của sứ mệnh này. So với hình thức truyền thống, cách thức truyền thông mới đã tạo ra ngữ pháp biểu đạt riêng, do đó, cần phải chuẩn bị cho nhiệm vụ này không chỉ về mặt kỹ thuật mà còn cả về mặt văn hóa. Những ai muốn truyền đạt thông điệp một cách hiệu quả và ý nghĩa phải có kiến ​​thức kỹ thuật cũng như am hiểu sâu sắc về khía cạnh văn hóa của nhiệm vụ.

Sự quan tâm đến chiều kích văn hóa này cần được thể hiện ở hai khía cạnh; Thứ nhất, nhà truyền thông hoặc nhà truyền giáo cần phải hiểu rõ văn hóa chung của đối tượng mà họ muốn hướng đến — thấu hiểu những lo lắng, mối bận tâm, nỗi sợ hãi và hy vọng của họ; thứ hai, người đó cần phải nắm bắt những thách thức cụ thể từ văn hóa và môi trường truyền thông mới, nơi những thay đổi đáng kể trong cách thức tiếp nhận thông tin đã được tạo ra bởi những tiến bộ trong công nghệ.

Mục tiêu của truyền thông truyền giáo, xét cho cùng, là tham gia vào sứ mệnh của Thiên Chúa. Nhiệm vụ của người truyền giáo không chỉ đơn thuần là truyền tải thông tin. Nhiệm vụ của họ là loan báo Tin Mừng. Hiệu quả của việc rao giảng Tin Mừng sẽ thúc đẩy người nghe hành động; mang lại sự thay đổi trong cuộc sống của họ bằng cách đáp lại lời mời gọi của Chúa Cha thông qua việc đón nhận Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa, bởi quyền năng của Chúa Thánh Thần.

Nhà truyền giáo phải luôn nuôi dưỡng hy vọng trong những bối cảnh văn hóa đa dạng. Nhân học Kitô giáo, cách hiểu của Kitô giáo về ý nghĩa của việc làm người, bắt nguồn từ nhận thức rằng mọi người đều được tạo ra theo hình ảnh và giống Thiên Chúa. Đây được xem là một chân lý phổ quát về bản chất con người và không phụ thuộc vào việc con người có nhận biết Thiên Chúa hay không. Do đó, làm người là tồn tại trong mối tương quan với Thiên Chúa bất kể người ta có tin vào Ngài hay không.

Vậy làm thế nào để người truyền giáo truyền đạt thông điệp một cách hiệu quả? Một trong những yếu tố then chốt của truyền thông truyền giáo hiệu quả là xác định rõ ràng mục đích và mục tiêu của việc truyền đạt. Mục đích của truyền thông truyền giáo là giúp người nghe thấu hiểu thông điệp theo cách tác động sâu sắc đến cuộc sống của họ. Phong cách, phương pháp và kỹ thuật chỉ là công cụ hỗ trợ cho sự thấu hiểu này. Thông điệp phải dễ hiểu, phù hợp với bối cảnh, thiết thực và hướng đến mục tiêu. Để những người truyền giáo hiểu rõ mục đích và mục tiêu của nhiệm vụ, họ cần nghiên cứu khoa học truyền giáo và các ngành thần học khác như nền tảng cần thiết cho công cuộc truyền thông Kitô giáo.

Truyền thông đạt hiệu quả cao nhất khi thông điệp được hiểu là đáp ứng những nhu cầu thiết thực của người tiếp nhận. Các nhà truyền giáo đã kết nối với những người thuộc nhiều nền văn hóa khác nhau bằng cách quan tâm đến những nhu cầu chính đáng của họ. Trong suốt chiều dài lịch sử, các nhà truyền giáo Kitô giáo là những sứ giả giao tiếp xuyên văn hóa lớn nhất và phổ biến nhất. Người truyền đạt thông điệp Kitô giáo không truyền tải điều gì đó xa lạ với bản thân họ, mà xây dựng sự kết nối bằng cách chia sẻ, hy sinh bản thân, như Chúa Kitô đã làm, và để mọi người biết rằng người ấy yêu thương họ. Thái độ và tâm tính của người truyền giáo trong bất cứ điều gì họ làm cho mọi người phải được thúc đẩy bởi lòng trắc ẩn như Chúa Kitô. Đây là cốt lõi của mọi hoạt động truyền giáo. Nếu điểm kết nối này tồn tại, tất cả những yếu tố khác của truyền thông hiệu quả đã được thảo luận ở đây sẽ được vận dụng một cách tự nhiên. Thực tế, mọi hành vi đều là truyền thông.

Điều quan trọng nhất là cách người tiếp nhận hiểu thông điệp được truyền tải hơn là sự chính xác hay đúng đắn trong lời nói hay hành động của người truyền đạt. Điều này không có nghĩa là thông điệp không quan trọng. Nhưng cách người tiếp nhận giải mã thông điệp trong bối cảnh văn hóa của họ là rất quan trọng. Người truyền đạt cần trình bày thông điệp thông qua những hình thức văn hóa (biểu tượng) được chấp nhận, khơi gợi trong người tiếp nhận những ý nghĩa mà mỗi người định hình thành thông điệp mà cuối cùng họ lĩnh hội được. Những người loan báo Tin Mừng cần thể hiện thế giới quan hoặc lối sống phù hợp với hoàn cảnh sống của người nghe. Việc sử dụng ngôn ngữ hoặc cách diễn đạt xa lạ với môi trường văn hóa của người nghe sẽ không hiệu quả.

Người truyền đạt và người tiếp nhận nên thấu hiểu bối cảnh văn hóa và sử dụng cùng một hệ quy chiếu. Truyền thông, nếu muốn chân thành, cần tạo dựng sự tương đồng và dẫn đến sự kết nối. Việc áp dụng giải pháp vay mượn hoặc rập khuôn từ văn hóa và bối cảnh của chính mình hoặc của người khác không thể đảm bảo đạt được hiệu quả mong muốn. Để truyền thông hiệu quả, cần phải sử dụng ngôn ngữ địa phương, biểu tượng văn hóa và thế giới quan của từng cộng đồng cụ thể.

Truyền thông sẽ hiệu quả hơn khi lời nói và hành động của người truyền đạt phù hợp với người dân. Thông điệp được truyền tải hiệu quả hơn bằng ngôn ngữ im lặng của giao tiếp phi ngôn ngữ so với lời nói hay thậm chí là các biểu tượng bên ngoài. Sẽ rất khó hiểu khi nhà truyền giáo rao giảng về sự bình đẳng và tình yêu thương nhưng lại đối xử với các cộng sự như những người thấp kém hơn hoặc nuôi dưỡng định kiến ​​với họ. Khi những thông điệp ngầm được truyền đạt qua hành vi không phù hợp với thông điệp được công bố, mọi người sẽ có xu hướng không tin tưởng người truyền đạt.

Việc am hiểu và sử dụng cả ngôn ngữ lời nói và phi ngôn ngữ của người dân là điều kiện tiên quyết cho sự truyền thông hiệu quả. Chúng ta đang đề cập đến ngôn ngữ cơ thể, ánh mắt, xúc giác, không gian giao tiếp, thời gian và ngôn ngữ cận biên. So với các hình thức khác, giao tiếp phi ngôn ngữ và cận ngôn ngữ chịu ảnh hưởng nhiều bởi văn hóa. Do đó, người truyền giáo cần hết sức chú ý nghiên cứu những biểu tượng này để tránh gây ra hiểu lầm, bối rối, thậm chí là những tình huống đáng tiếc.

Để truyền thông Kitô giáo đạt hiệu quả, thông điệp cần được truyền đạt ở cả ba khía cạnh: nhận thức, tình cảm và đánh giá. Thứ nhất, truyền đạt kiến thức và sự thật thông qua việc cung cấp thông tin. Thứ hai, thông điệp cần chạm đến khía cạnh tình cảm của người nghe. Họ cần cảm nhận được niềm vui, sự an ủi, lòng biết ơn, nỗi buồn, sự ăn năn, thử thách và sự hoán cải. Thứ ba, thông điệp cũng cần liên quan đến các giá trị. Ở cấp độ đánh giá, mỗi cá nhân và mỗi cộng đồng sẽ phán xét điều gì là đúng hay sai. Chính ở cấp độ này, con người sẽ quyết định và hành động dựa trên những gì được nghe.

Truyền thông Kitô giáo luôn là một lời loan báo Tin Mừng và hiệu quả thực sự của nó dựa vào quyền năng của Chúa Thánh Thần. Lịch sử có rất nhiều ví dụ về những người truyền đạt dường như thiếu 'năng khiếu' giao tiếp hiệu quả nhưng vẫn tạo được ảnh hưởng lớn đến cuộc sống của những người cùng thời. Nhà truyền thông Kitô giáo tin tưởng vào quyền năng của Chúa Thánh Thần sẽ hỗ trợ họ trong nhiệm vụ được giao phó. Sau khi ủy thác cho các môn đệ đi rao giảng sứ điệp ăn năn sám hối và tha tội cho muôn dân, Chúa Giêsu đã truyền dạy họ chờ đợi “quyền năng từ trên cao” (Lc 24: 44-49).

Nói về những thách thức từ công nghệ truyền thông và tiềm năng của nó trong việc loan báo thông điệp Tin Mừng, Chủ tịch Hội đồng Giáo hoàng về Truyền thông Xã hội, Đức Tổng Giám mục Maria Claudio Celli (2009) chia sẻ: “Là một cộng đồng tín hữu cam kết loan báo Tin Mừng của Chúa Giêsu Kitô đến với mọi người, Giáo hội được thôi thúc xem xét cách thức truyền đạt thông điệp trong bối cảnh của một nền văn hóa truyền thông mới đang hình thành. Theo truyền thống, chúng ta thường xem các phương tiện và công nghệ truyền thông mới như những công cụ để truyền tải Lời Chúa. Evangelii Nuntiandi (45) mô tả các phương tiện mới như một “hình thức hiện đại và hiệu quả của bục giảng.”

Tình hình biến đổi to lớn này đòi hỏi một nhận thức mới: Thách thức ngày nay là việc hiểu rằng các công nghệ mới không chỉ là công cụ truyền thông mà còn tác động sâu sắc đến chính nền văn hóa truyền thông (RM 37). Các nhà bình luận chỉ ra rằng “truyền thông kỹ thuật số” được đặc trưng bởi tính đa phương tiện (người dùng phương tiện truyền thông mới thường tương tác đồng thời với nhiều hình thức phương tiện truyền thông khác nhau), tính liên phương tiện (sự hội tụ và tích hợp các loại hình phương tiện truyền thông) và tính di động. Những yếu tố này kết hợp lại đã thay đổi hoàn toàn cách thức sử dụng và tiếp nhận phương tiện truyền thông. Trong quá khứ, chúng ta thường xem người đọc, người nghe hoặc người xem như những khán giả thụ động tiếp nhận nội dung được tạo ra một cách tập trung. Ngày nay, chúng ta cần hiểu rằng khán giả ngày càng chủ động lựa chọn và tương tác với một loạt các phương tiện truyền thông. Nguyên lý của truyền thông đã thay đổi hoàn toàn - trọng tâm từ phương tiện truyền thông đã chuyển sang khán giả, những người ngày càng độc lập và có chủ ý trong việc tiếp nhận thông tin và thói quen sử dụng phương tiện truyền thông.

Phương tiện truyền thông mới chắc chắn mang đến cho Giáo hội cơ hội lớn hơn để phổ biến Lời Chúa một cách rộng rãi và trực tiếp hơn. Việc sử dụng các công nghệ mới giúp trình bày thông điệp về tình yêu thương của Thiên Chúa dành cho con người một cách hấp dẫn hơn, thu hút những khán giả mới. Điều này đòi hỏi chúng ta phải nghiên cứu và am hiểu những mô hình sử dụng phương tiện truyền thông mới, cũng như cách thức chúng tác động đến văn hóa, hành vi và công luận.

Các nhà truyền giáo cần hiểu rõ hơn về cách thông điệp được lắng nghe và thấu hiểu bởi những đối tượng khác nhau. Trọng tâm thường được đặt vào nội dung thuyết giảng hoặc giảng dạy; nhưng ngày nay, điều cần thiết là phải quan tâm đến cả người nghe, hoặc nhiều nhóm người nghe, đồng thời hiểu rõ những mối bận tâm và câu hỏi của họ. Họ cần thấu hiểu hơn và xem xét đến bối cảnh và môi trường mà con người ngày nay tiếp cận Lời Chúa. Sự xuất hiện của internet như một phương tiện tương tác, nơi người dùng muốn tham gia với tư cách là chủ thể chứ không chỉ là người tiếp nhận, đặt ra thách thức cho các nhà lãnh đạo Giáo hội trong việc phát triển những hình thức giảng dạy và trình bày mang tính đối thoại rõ ràng hơn.

Lời Chúa kiến tạo nên những cộng đồng tín hữu. Việc loan báo Lời Chúa trong thời đại kỹ thuật số đòi hỏi sự quan tâm nhiều hơn đến tầm quan trọng của các cộng đồng và mạng lưới kỹ thuật số. Chính sự tham gia tích cực và đóng góp của những người tham gia đã tạo nên những cộng đồng này. Thách thức ngày nay là đưa thông điệp cứu độ của Thiên Chúa vào những cộng đồng mới này.

Vài năm trở lại đây, chúng ta chứng kiến những thay đổi mang tính cách mạng trong cách thức truyền thông: điện thoại di động và vô số ứng dụng web hay internet, còn được gọi là phương tiện truyền thông mới, đang tạo ra một nền văn hóa giao tiếp mới, điều mà cách đây vài năm khó ai có thể tưởng tượng được. Những phương tiện này không chỉ đơn thuần là những cải tiến giúp tăng tốc độ giao tiếp hay mở rộng phạm vi tiếp cận. Chúng cũng thách thức cách thức chúng ta giao tiếp. Giáo hội đã có những bước đi ban đầu trong việc tiếp cận các phương tiện truyền thông mới. Tuy nhiên, thế giới truyền thông rộng lớn mà giới trẻ ngày nay đang tham gia phần lớn vẫn nằm ngoài phạm vi của việc truyền thông Tin Mừng.

Là một Kitô hữu có nghĩa là có một ý thức sâu sắc về việc được kêu gọi để chia sẻ Ánh sáng của Chúa Kitô với mọi người. Chúng ta cần dấn thân truyền đạt bản chất của Kitô giáo, đó là tình yêu Thiên Chúa và tình yêu thương người lân cận. Phương tiện truyền thông ngày nay đang khiến ngay cả những điều không có thật trông giống như thật. Vậy tại sao chúng ta không tham gia vào đó và tại sao chúng ta không hiệu quả trong việc giúp mọi người nhận biết đâu là sự thật? Chúng ta cần khám phá khả năng tham gia vào tất cả các loại hình phương tiện truyền thông, chứ không nên tự giới hạn mình trong một hoặc hai phương pháp để chia sẻ Tin Mừng của Chúa Kitô.

Trong Thông điệp năm 2009 nhân Ngày Truyền thông Thế giới, Đức Giáo hoàng Biển Đức XVI đã giao phó sứ mệnh truyền giáo trong lục địa kỹ thuật số cho những người Công giáo trẻ: Đặc biệt, những người trẻ tuổi, vốn có sự gần gũi tự nhiên với các phương tiện truyền thông mới, cần gánh vác trách nhiệm truyền giáo cho “lục địa kỹ thuật số” này. Ngài cũng kêu gọi họ chú ý đến nền văn hóa đặc thù của lục địa này: việc loan báo Chúa Kitô trong thế giới công nghệ mới đòi hỏi phải am hiểu sâu sắc về thế giới này để công nghệ có thể phục vụ sứ mệnh một cách thích đáng.

“Lục địa kỹ thuật số” là một lục địa ảo, không có kích thước vật lý nhưng lại là nơi gần một phần ba nhân loại — đặc biệt là giới trẻ và trẻ em, cũng như những người dân bình thường, các nhà khoa học, học giả và doanh nhân — cùng nhau tìm kiếm thông tin, bày tỏ quan điểm và nâng cao hiểu biết. Trong vùng đất 'không nơi nào' này, nơi thời gian và ý nghĩa được chia sẻ, các cá nhân gặp gỡ những cá nhân khác, các cộng đồng, hiệp hội và tổ chức. Các phương tiện truyền thông cũ được tích hợp vào một mô hình tương tác mới: sách, báo chí, radio, phim ảnh và truyền hình củng cố nội dung và vang vọng qua internet. Tại đó, chúng được hàng triệu người diễn giải lại, tái tạo và biến đổi thông điệp bằng cách thêm vào ý nghĩa mới của riêng họ và chia sẻ chúng với những người khác. Thiên Chúa và tôn giáo không bị loại trừ khỏi môi trường truyền thông này; trái lại, cả hai đều có một vai trò xã hội mới, và là chủ đề tranh luận trong một loại “tìm kiếm ý nghĩa” mang tính toàn cầu. Giáo hội là một phần của dàn đồng ca này, một tiếng nói trong số những tiếng nói khác, loan báo hình ảnh của Thiên Chúa mà Chúa Giêsu Kitô đã mặc khải trong các sách Tin Mừng.

Giáo hội đang hiện diện, nhưng cho đến nay, chúng ta mới chỉ ở những bước đầu của hành trình. Chúng ta cần phát triển sự hiện diện mang tính chiến lược và hội nhập hơn. Chúng ta phải cùng nhau tiến bước để đảm bảo việc trình bày Tin Mừng được thực hiện một cách hiệu quả, rõ ràng và gắn kết hơn. Chúng ta phải tăng cường sự hiệp thông giữa hàng ngàn sáng kiến ​​đang xuất hiện. Mỗi sáng kiến ​​đều có đặc sủng và lý do riêng, nhưng tất cả đều được mời gọi để phản ánh sứ mệnh phổ quát của Giáo hội. Nền văn hóa kỹ thuật số mới đã củng cố khả năng kết nối mạng và dẫn đến nhiều hình thức cộng tác khác nhau; Giáo hội luôn tự nhận thức mình như một “mạng lưới”. Trong một mạng lưới hiệu quả, mỗi nút vẫn giữ được bản sắc riêng nhưng đồng thời được tích hợp vào một thể thống nhất lớn hơn, nơi nó đóng góp và được hỗ trợ, bổ sung bởi những đóng góp từ các nút khác.

Giáo hội dấn thân tham gia vào các phương tiện truyền thông mới và nền văn hóa truyền thông mới mà chúng đang tạo ra. Dấn thân tiếp cận mọi người đòi hỏi chúng ta phải sẵn sàng thay đổi để trở thành những chứng nhân hùng hồn và chân thực hơn cho đức tin mà chúng ta tuyên xưng. Việc truyền giáo cho các phương tiện truyền thông và bằng các phương tiện truyền thông không thể xảy ra nếu không có sự thay đổi hay hoán cải (metanoia) trong cuộc sống của chúng ta.

Mọi nhà truyền giáo Kitô giáo đều có thể noi gương Thánh Phaolô, Tông đồ Dân ngoại, với lòng nhiệt thành phi thường của Ngài trong việc loan báo Tin Mừng cho muôn dân. Ngài được dẫn dắt bởi một ngọn lửa, một niềm đam mê thôi thúc Ngài không chỉ rong ruổi khắp nơi không mệt mỏi mà còn nỗ lực hết mình để thấu hiểu những người mà Ngài muốn rao giảng Tin Mừng. “Tôi là một người tự do, không lệ thuộc vào ai, nhưng tôi đã trở thành nô lệ của mọi người, hầu chinh phục thêm được nhiều người. Với người Do-thái, tôi đã trở nên Do-thái, để chinh phục người Do-thái. Với những ai sống theo Lề Luật, tôi đã trở nên người sống theo Lề Luật, dù không còn phải sống theo Lề Luật nữa, để chinh phục những người sống theo Lề Luật. Đối với những kẻ sống ngoài Lề Luật, tôi đã trở nên người sống ngoài Lề Luật, dù tôi không sống ngoài luật Thiên Chúa, nhưng sống trong luật Đức Ki-tô, để chinh phục những người sống ngoài Lề Luật. Tôi đã trở nên yếu với những người yếu, để chinh phục những người yếu. Tôi đã trở nên tất cả cho mọi người, để bằng mọi cách cứu được một số người. Vì Tin Mừng, tôi làm tất cả những điều đó, để cùng được thông chia phần phúc của Tin Mừng.” (1 Cr 9, 19-23).

Tài liệu tham khảo

      1.           Bosch, David (1991). Transforming Mission: Paradigm Shifts in Theology of Mission, Maryknoll: Orbis Book, p. 519.

      2.           Celli Maria Claudio, (2009). “The Role of Mass Communications in Evangelization”, Talk at the NEA Conference, Dallas, TX, USA - January 30, 2009.

      3.           Hesselgrave, David (). Communicating Christ Cross-Culturally, Allahabad, St. Paul Publications.

      4.           Hrangkhuma (1995). “Mission as Communication” in Joseph Mattam and Sebastian Kim, Dimensions of Mission in India, Mumbai, St. Pauls.

      5.           Kraemer, Hendrick (1963). The Christian Message in a Non-Christian World, Grand Rapids: p. 141

      6.           Smith, Donald. Creating Understanding - A Handbook for Christian Communication across Cultural Landscapes, Zondervan.

     7.           www.vatican.va


Chia sẻ