TRIẾT HỌC BIẾT GÌ VỀ THIÊN NHIÊN?
Khoa học tự nhiên và triết học thiên nhiên có cùng một đối tượng là hữu thể vật lý, nhưng khác nhau về phương pháp nghiên cứu. Trong lúc khoa học thực nghiệm tìm hiểu thiên nhiên qua quan sát và thí nghiệm, thì triết học thiên nhiên dựa trên logic suy diễn của siêu hình học, xem thế giới vật lý như một trường hợp đặc biệt của hữu thể để khai thác các điều kiện trong cách thế thiên nhiên tồn tại. Bài này sẽ lượt qua các khái niệm về vũ trụ, luật thiên nhiên, các giới hạn trong cách tồn tại của thiên nhiên, và tri thức của con người về thế giới vật lý từ nhãn quan triết học.
VŨ TRỤ VÀ THIÊN NHIÊN
Trước tiên chúng ta hãy tìm hiểu hai khái niệm “thiên nhiên” và “vũ trụ”. Chúng ta trải nghiệm thiên nhiên như là hữu thể vật chất xuất hiện một cách tổng thể và chặt chẽ, chứ không chỉ đơn thuần là các hữu thể vật lý. Chúng ta dùng hạn từ “vũ trụ” (kosmos) để nói lên một ý nghĩa rất đặc biệt, đó là một sự kết hợp chặt chẽ của các sự vật, như một tập hợp vừa đẹp vừa chân thực của những thành phần khác nhau, tạo nên một thể thống nhất có tổ chức. Vũ trụ là một thực tại trái ngược với sự hỗn độn, vô trật tự và vô tổ chức (chaos). Người Hy Lạp cho rằng không có tư duy nếu không có gì tồn tại. Trong các chuyện thần thoại Hy Lạp về nguồn gốc vũ trụ, không có hành vi sáng tạo nhưng có một sự thay đổi quan trọng khi các vị thần sắp xếp lại trật tự từ sự hỗn độn để tạo thành vũ trụ như chúng ta biết ngày nay. Sự hư vô thì hỗn độn, chẳng có ý nghĩa gì hết. Ở nơi hư vô, có thể có hữu thể vật lý nhưng không có hệ thống hay nguyên tắc lề luật. Tất cả như một khối rời rạc và bất liên kết, một sự vô định hình, thiếu tương tác nội tại, đối ngược hoàn toàn với vũ trụ. Thiên nhiên hay vũ trụ là sự hình thành nên một tổng thể liên kết chặt chẽ, cho thấy có một trật tự hay quy luật nào đó đang điều phối mọi chuyển động. Vì lý do đó mà vũ trụ hay thiên nhiên có thể nhận thức được bằng trí tuệ.
Đối với các triết gia, việc nhận thức rằng vũ trụ vật lý có một sự thống nhất về các nguyên tắc trật tự mang một ý nghĩa quan trọng. Mọi thứ trong thiên nhiên đan xen với nhau. Khi ta cố gắng nhận thức thiên nhiên thì ta đang nhìn nó như là một “tổng thể” chứ không phải là hư không. Nhiều triết gia hiện sinh kết luận rằng chúng ta đang sống trong một thế giới phi lý và con người hành động một cách vô ý thức. Thế nhưng câu nói “chúng ta đang sống trong một thế giới vô nghĩa” chỉ có nghĩa khi nó đang trái ngược với sự có ý nghĩa, và do đó, sự có ý nghĩa thì căn bản và nền tảng hơn là vô nghĩa. Như thế, thiên nhiên hay thế giới vật lý không phải là một vật hỗn tạp hay ở trạng thái hỗn độn. Thiên nhiên là một vũ trụ, một thế giới, hay một tổng thể liên kết chặt chẽ, hợp nhất và đầy ý nghĩa.
Nếu thiên nhiên là một hệ thống liên kết chặt chẽ, thì chúng ta có thể đặt ra câu hỏi là: cái gì làm cho nó kết nối với nhau? Và cái gì làm cho thiên nhiên ăn khớp với nhau để tạo thành một hệ thống? Những nhà khoa học nhận thấy rằng vũ trụ luôn được biểu lộ bằng những nguyên tắc hay quy luật của thiên nhiên vốn giải thích tính kết cấu và sự gắn kết của nó. Nhân luật như luật nhà nước có thể mang tính tiêu cực, bởi vì nó ràng buộc và trừng phạt chúng ta do mục tiêu của nó là để giải quyết những vấn đề gây nên bởi con người không sống trọn vẹn trách nhiệm của mình. Thế nhưng, luật thiên nhiên mang tính tích cực vì chúng phát xuất từ nội tại. Chúng là biểu hiện của những mối tương quan có trật tự giữa những thành phần của tổng thể gọi là thiên nhiên. Xét theo ý nghĩa cơ bản nhất thì luật là sự diễn đạt của khả niệm tính nội tại. Luật vừa biểu hiện trật tự vừa là sự củng cố của tính hợp nhất chặt chẽ. Luật là một phần của hệ thống được sắp đặt và là ý nghĩa cuối cùng của hệ thống.
Luật được xem như là nguyên lý nền tảng và là sự hợp nhất mà hữu thể vật chất tự biểu lộ về chính nó.
Nhưng làm sao trí tuệ con người có khái niệm về luật? Hay nói cách khác, khả niệm tính (intelligibility, conceptualization) tương quan với vũ trụ như thế nào? Trước tiên, chúng ta phải công nhận rằng, nếu một cái gì đó hoàn toàn vô trật tự hay hỗn độn thì trí tuệ con người không thể hiểu thấu được. Khi trí khôn đối diện với sự lộn xộn hay vô trật tự thì trí khôn nhận ra ngay có sự thiếu vắng của trật tự hay quy luật. Như thế, chỉ qua luật chúng ta mới hiểu trật tự và trật tự đem đến khả niệm tính. Vì vậy khi chúng ta sống trong một vũ trụ đầy ý nghĩa, tức là chúng ta đang sống trong một vũ trụ có trật tự, được điều hành bởi luật. Những luật thiên nhiên hay luật vật lý là sự phức hợp toàn diện của những mối tương quan có trật tự vốn được tạo nên từ những thành phần khác nhau. Khi nhà khoa học tìm hiểu luật thiên nhiên, họ cố gắng nhận thức những gì đang biểu lộ các hoạt động bên trong của thiên nhiên, hay khả niệm tính tự nhiên của nó.
LUẬT THIÊN NHIÊN & LUẬT THIÊN CHÚA
Để hiểu rõ hơn về luật thiên nhiên, chúng ta cần xét điều kiện phổ quát của luật vật lý. Các triết gia duy vật đã đúng khi họ chủ trương rằng quy luật vật lý phải áp dụng cho bất cứ hữu thể nào trong vũ trụ. Newton chứng minh nguyên nhân làm cho trái táo rơi xuống đất cũng là nguyên nhân làm cho mặt trăng xoay quanh địa cầu. Nhưng có thể sai lầm nếu khoa học gia giả định rằng luật thiên nhiên là quy luật tối thượng của vũ trụ. Mọi sự tồn tại trong vũ trụ như cách chúng đang tồn tại là vì Thiên Chúa muốn chúng hiện hữu như thế. Các triết gia thiên nhiên cần quan tâm về nền tảng chân thực của thế giới vật lý như là hiệu quả trực tiếp của nguyên nhân siêu nhiên. Vũ trụ biến dịch tự nó không thể giải thích cho sự tồn tại của chính nó. Chúng ta cũng không thể thấu hiểu yếu tính của vũ trụ nếu chúng ta không nhận ra mối tương quan giữa vũ trụ với Thiên Chúa như hậu quả đối với nguyên nhân.
Nói một cách đơn giản, Thiên Chúa là nguyên nhân và vũ trụ là kết quả, và từ logic này chúng ta có thể đi đến một số kết luận về bản chất của nguyên nhân. Nguyên nhân đóng ấn hay để lại trên kết quả dấu vết của vũ trụ như một dấu hiệu riêng tư. Khi một họa sĩ vẽ một bức tranh được xem là đẹp thì trí tuệ thông minh và tài năng của người họa sĩ được phản ảnh qua tác phẩm của mình. Cũng như một nghệ nhân để lại dấu ấn trí tuệ trên tác phẩm của mình, thì Thiên Chúa đã lưu lại dấu ấn đặc trưng của Ngài trên vũ trụ mà Ngài đã tạo dựng. Sự khác biệt là khi các nghệ nhân sáng tác, họ chỉ tiếp nhận và diễn đạt ý tưởng qua tác phẩm nghệ thuật của họ, nhưng Thiên Chúa chính là nguồn gốc của mọi sự hiện hữu. Nghệ nhân tạo ra tác phẩm nghệ thuật nhưng không tạo ra vật liệu hay quy luật về nghệ thuật, nhưng chính Thiên Chúa đã tạo dựng nên vũ trụ và các quy luật, nhờ đó vũ trụ được tạo thành và vận hành. Thiên Chúa không bị điều phối bởi nguyên tắc ngoại tại hay trổi vượt nào hơn chính Ngài. Thiên Chúa hành động hoàn toàn từ chính quyền năng và trí tuệ siêu việt tự tại của Ngài.
Luật của Thiên Chúa thể hiện qua ba dạng thức: Thiên luật (mạc khải qua Kinh Thánh), luật thiên nhiên hay luật vĩnh cửu (mạc khải qua vũ trụ vật lý), và nhân luật (luật xã hội). Tự lý trí, con người có thể thấu hiểu được luật thiên nhiên, nhưng khi áp dụng vào phạm vi đạo đức thì được gọi là luật tự nhiên hoặc luật luân lý. Như thế, luật tự nhiên là thành phần nội tại trong trật tự vũ trụ, áp dụng cho những thụ tạo sở hữu lý trí và tự do vốn có khả năng tự phản ánh quy luật đó. Luật tự nhiên được khắc ghi trong tâm khảm con người như thánh Phaolô viết trong thư gửi tín hữu Rôma (Rm 2:15). Thông qua lương tâm, hay tiếng nói của luật tự nhiên, chúng ta có thể nhận biết ý định của Thiên Chúa và mục đích của các hành vi nhân linh. Nhìn một cách phổ quát hơn, chúng ta có thể nói rằng luật tự nhiên cũng chính là luật Thiên Chúa vốn có áp dụng cách cụ thể cho các thụ tạo có lý tính. Qua luật tự nhiên chúng ta có thể nhận ra trật tự luân lý trong vũ trụ.
Thiên luật được mạc khải như là nền tảng cho luật thiên nhiên và luật tự nhiên. Thiên luật tỏ lộ sự khôn ngoan của Thiên Chúa (Kinh Thánh), và sự hợp nhất nội tại của mọi quy luật điều khiển vũ trụ đang tồn tại. Một cách tổng thể, luật vật lý hay luật thiên nhiên một cách tổng thể cấu thành nên toàn bộ các mối tương quan có trật tự đang tồn tại trong vũ trụ vật chất. Mục đích của khoa học là khám phá luật ra các quy luật vật lý hay luật thiên nhiên, vì chúng tiết lộ những hoạt động và bản chất của thế giới vật lý. Quy luật thiên nhiên là những nguyên tắc tạo nên sự liên kết chặt chẽ trong thế giới vật lý và khả niệm tính. Thế giới vật lý có thể được xem như là một hệ thống vĩ mô, bao gồm những mối quan hệ nhân quả với nhau, đó là tri thức về yếu tính của sự vật – cách thức một sự vật cụ thể này có liên quan đến một sự vật cụ thể khác. Vì thế, tri thức về tương quan giữa nguyên nhân và hậu quả đưa đến khả năng tiên đoán. Một khi chúng ta đã tạo nên mô hình nguyên tắc (regulare) cho thế giới vật lý trong quá khứ, thì chúng ta có thể dự đoán được rằng mô hình đó sẽ đúng trong tương lai.
Tuy nhiên, khả niệm tính của con người vẫn còn nhiều giới hạn. Tri thức về nguyên nhân của hoạt động trong thế giới vật lý không có nghĩa là chúng ta có cái nhìn hoàn toàn tổng thể về vũ trụ vật chất. Người thợ máy biết rằng sản phẩm của anh ta lệ thuộc vào khả năng và phẩm chất của những máy móc anh ta đang điều hành. Cho dù sự hiểu biết của con người về cách vũ trụ hoạt động chính xác thế nào đi nữa, điều đó vẫn không thể loại trừ các yếu tố phi vật chất như ý định hay sự can thiệp của Thiên Chúa. Cũng vậy, triết gia thiên nhiên cần ý thức về những giới hạn của quy luật vật lý đang điều phối vũ trụ. Hơn nữa, một khi hiểu các quy luật vật lý không có nghĩa là chúng ta phải chấp nhận chủ nghĩa tất định. Triết học xem vũ trụ như một trật tự dựa trên các nguyên tắc được thiết lập, và thế giới được sắp đặt trong cách mà nó là chứ không phải là sự hỗn độn. Thế nhưng điều này không có nghĩa là thế giới không thể được hình thành trong một cách thức nào khác hơn là cách thức mà chúng ta đang nhận thức nó. Thiên Chúa lựa chọn tạo dựng thế giới theo ý muốn của Ngài một cách tự do, và không lệ thuộc vào bất cứ gì khác; nhưng thế giới mà Ngài đã tạo nên là một thế giới được mặc định để tồn tại trong cách thức mà Trí tuệ Siêu nhiên muốn nó tồn tại.
Con người được tạo nên là một thực thể duy nhất cả linh hồn và thân xác, vật chất và phi vật chất. Chính bởi trạng thái phức hợp này mà chúng ta cùng lúc vừa là mặc định vừa là không mặc định. Một cách đơn giản, chúng ta là cách thức mà Thiên Chúa đã dựng nên để hiện hữu. Chúng ta đã được mặc định sống và hành động theo tính vật chất của mình trong phạm vi trọng lực cho phép. Qua thời gian và nhiều cách thức khác nhau, cơ thể của chúng ta cũng sẽ phát triển và thay đổi trong sự tương tác với quy luật này. Tất cả những gì chúng ta nghĩ là chúng ta có thể vượt qua thế giới vật lý, thì thật ra chúng ta cũng chỉ đơn giản là vượt lên trên những hiện hữu vật lý khác. Thế nhưng điều này không có nghĩa là chúng ta không có khả năng hướng đến cái vô hạn nhờ vào sự tự do và ý hướng thiêng liêng của chúng ta.
BẢN CHẤT CỦA THIÊN NHIÊN
Thuật ngữ “nature” có thể được hiểu theo hai cách: (a) thiên nhiên hay vũ trụ vật lý, hoặc (b) bản chất hay yếu tính của một hữu thể. Theo nghĩa thứ nhất, chúng ta nhận ra thiên nhiên như một tổng thể các hiện hữu vật lý mà chúng ta luôn tồn tại trong đó (trực giác) và chúng ta khám phá nó như những giới hạn của thế giới (khách quan). Thiên nhiên được hiểu như là trái ngược với cái nhân tạo. Thiên nhiên đã có sẵn trước khi con người xuất hiện; còn chúng ta chỉ nhận ra và phản ứng lại thực tại khách quan của nó. Thiên nhiên là thực tại mà mọi sự vật khác phải thích nghi với nó, vì nó không hoạt động một cách nào khác. Thiên nhiên đặt trước chúng ta như việc đã rồi; nó lên tiếng trước và chúng ta phản ứng lại. Cho dù thiên nhiên được xem như là một tổng thể hợp nhất của tất cả mọi tồn tại, nhưng con người vẫn luôn luôn có thể tách mình ra khỏi thiên nhiên khi chúng ta dùng “ngôn ngữ của con người” để phân biệt với “ngôn ngữ của thiên nhiên”.
Cách dùng thứ hai của thuật ngữ “nature” là bản chất hay yếu tính của một thực thể tồn tại cụ thể. Đó là thực tại nội tại nhất định tạo nên sự vật, qua đó chúng ta có thể phân biệt nó với các sự vật khác mà không phải là nó. Bản chất hay yếu tính của sự vật là nền tảng căn tính của một sự vật vốn cho phép chúng ta nhận ra nó ngày hôm nay và ngày mai. Hạn từ Latinh, “quidditas” (tiếng Anh: “what-ness”) xác định “cái là” cơ bản và đặc thù của hữu thể. Khi chúng ta tiếp xúc với một sự vật lần đầu mà chưa có bất kỳ một ý niệm gì về nó thì chúng ta sẽ hỏi “Nó là cái gì?” Chúng ta biết chúng ta đang tiếp xúc với một thực tại có thật. Chúng ta tự thuyết phục mình là có một “cái gì đó” tồn tại, nhưng chúng ta không biết bản chất của cái đó. Chúng ta muốn tìm hiểu “quidditas”, tức là bản chất hoặc yếu tính của sự vật đó.
Bằng cách nào chúng ta nắm bắt một cách khách quan về bản chất hay yếu tính cách khách quan trong khi chúng ta chỉ là một phần của thế giới vật lý đang được nghiên cứu? Bất cứ gì được dùng để nói về bản chất của thế giới vật lý thì tất nhiên cũng được dùng để nói về cho thân xác của chúng ta. Tri thức đầy đủ và hoàn thiện nhất của chúng ta về thế giới sẽ là tri thức trí tuệ được biểu lộ về chính nó qua các ý niệm. Tri thức trí tuệ đi theo sau và phụ thuộc vào tri thức tri giác. Nhưng nếu tri thức ở cấp độ đơn giản nhất là cảm giác, thì làm sao tri giác có thể cho ta biết hoàn toàn về thực tại chính xác của thế giới vật chất. Triết thiên nhiên cần nắm bắt sự sâu sắc và tinh tế của hữu thể như là hữu thể. Cách hữu hiệu nhất để hiểu tính vật chất của một sự vật là đặt nó trong sự đối nghịch với cái không cùng bản tính với nó (tính phi-vật chất). Triết thiên nhiên khởi đầu nhận thức bằng cách phân biệt giữa hữu thể vật chất (cảm giác được), và hữu thể phi vật chất (không thể cảm nhận được) bằng giác quan.
Thế nhưng làm sao chúng ta có thể khẳng định cách thức để nhận diện hai thực tại khác nhau nếu như sự hiểu biết của chúng ta bị giới hạn trong phạm vi của các giác quan? Chỉ vì một sự vật không thể cảm nhận được bằng giác quan thì nó không tồn tại hay sao? Qua khái niệm thông thường trong toán học, triết học hay khoa học, chúng ta vẫn nhận thức được “số 3” – một thực tại phi vật chất, cho dù “số 3” không thể được nhìn, nghe, nếm, sờ hoặc ngửi thấy được. Nhưng làm sao một thực tại phi vật chất có thể tồn tại bên ngoài thực tại vật chất? Nếu ý niệm “số 3” tồn tại một cách trung thực, thì trước khi ý niệm đó tồn tại phải có tâm trí vốn đã suy nghĩ ra những ý niệm đó. Hơn nữa, nếu một ý niệm không thể tách khỏi tâm trí, không có nghĩa là tất cả hữu thể phi vật chất phải tồn tại hoàn toàn phụ thuộc vào tâm trí vừa vật chất và vừa phi-vật chất của con người. Một cây cổ thụ bị đốn trên rừng cho dù không có ai lắng nghe tiếng động, nhưng không có nghĩa là không có tiếng động’ bởi vì nếu nó xảy ra, thì nó đã tồn tại trong tư tưởng của Thiên Chúa rồi. Thực tại phi-vật chất không phải hoàn toàn tuân theo quy luật của thực tại vật chất. Chỉ vì tư tưởng của con người lệ thuộc vào tâm trí con người, không có nghĩa là mọi hữu thể phi vật chất phải tồn tại phụ thuộc. Lý trí không thể loại trừ khả năng thực thể phi vật chất tồn tại. Thực tại phi vật chất có thể tồn tại phụ thuộc nhưng cũng có thể tồn tại hoàn toàn độc lập với chất thể. Điều này không có gì là mâu thuẫn.
TRI THỨC CON NGƯỜI VỀ THIÊN NHIÊN
Triết học nhận ra rằng tri thức của chúng ta bị hạn chế bởi cách nhận thức của giác quan. Mỗi ý niệm trong tâm trí có nguồn gốc từ sự vật trong thế giới. Bản chất của ngũ giác – thị giác, thính giác, xúc giác, vị giác và khứu giác –là bị động. Mỗi giác quan tương thích với một hình thức kích thích thể lý khác nhau. Sau khi các giác quan hoàn thành nhiệm vụ của mình thì thông tin mà chúng cung cấp sẽ được xử lý bởi tri giác nội tại. Tri giác tập hợp lại những dữ liệu thô được cung cấp bởi các giác quan, sau đó tổng hợp, sắp xếp và tạo nên hình ảnh về đối tượng trong thế giới. Tại giai đoạn này, trí tưởng tượng, trí nhớ và trí lượng định hoạt động qua cách chúng điều chỉnh và mở rộng các đối tượng tri giác thành hình ảnh trong tâm trí (phantasma). Trí tưởng tượng thu thập các hình ảnh này để “lấp đầy” bức tranh, làm cho chúng ta nhận biết rằng chúng ta đang nhìn vào một đối tượng (khách thể) theo ba chiều, nhưng thực ra chúng ta cũng chỉ nhìn thấy được hai chiều mà thôi. Trí nhớ phản ứng lại đối tượng tri giác bằng việc nhận ra hình ảnh như sự miêu tả về sự vật mà chủ thể đã tiếp xúc trước đó. Trí lượng định cung cấp cho chủ thể cách phán đoán tức khắc về tính lợi hay cảm xúc của chúng ta về hình ảnh. Đối với động vật, tri giác lượng định là bản năng, nhưng đối với con người, ngoài bản năng còn có nhiều yếu tố ảnh hưởng khác nữa. Kết quả cuối cùng của quá trình tương tác giữa “nội tại và ngoại tại” của tri giác là hình ảnh mà ta có trong tâm trí. Điều này đánh dấu cho sự kết thúc của tri thức tri giác (sense) vốn bị giới hạn theo tính vật chất và khách thể của sự vật.
Kế tiếp, chức năng trí tuệ (agent of the intellect) có năng lực đặc biệt tạo nên sự hiểu biết theo nghĩa chính thức của tri giác (sense). Chức năng trí tuệ hoạt động trực tiếp trên hình ảnh của sự vật thể lý trong tâm trí. Chức năng trí tuệ thâm nhập vào hình ảnh trong tâm trí và loại bỏ tính vật chất của nó. Trí tuệ tách bản chất phổ quát ra khỏi các hữu thể vật lý, từ đó dẫn tới sự định hình của khái niệm hoặc ý tưởng về sự vật. Khác với bản tính đơn thuần của linh hồn, trí tuệ con người là một thực thể hợp nhất vốn được kết nối bởi nhiều yếu tố. Do đó, trí tuệ con người có vô số năng lực riêng biệt. Tri giác mà chúng ta có cùng với động vật không phải là tri thức đầy đủ nhất về thế giới. Động vật có những năng lực nhạy bén và khả năng tạo ra những hình ảnh, nhưng không phải ý tưởng, bởi vì chúng không có khả năng trừu tượng vốn là điều kiện để để tạo nên yếu tính phi-vật chất của các hữu thể vật lý riêng lẻ. Tri giác có thể nhận thức hữu thể vật lý ở mức độ cá thể riêng biệt, nhưng trí tuệ là kết quả của sự trừu tượng hóa, nhìn thấy một dạng của các cá thể. Mục tiêu và chất liệu của trí tuệ là khả năng trừu tượng hóa vốn có thể tiết lộ căn tính nội tại của sự vật cá thể qua cách nó liên kết giữa sự vật riêng biệt với thực tại tổng thể. Sự trừu xuất này được cảm nhận như vô thức.
Chúng ta hiểu kết quả cuối cùng của nhận thức, nhưng không luôn ý thức được ba cấp độ trừu xuất riêng biệt hoạt động trong cách tâm trí tạo nên khái niệm. Cấp độ trừu xuất đầu tiên để lại những cá thể như là những cá thể, rồi qua các cá thể trí tuệ mới phát hiện ra những “loại”. Đây là khoa học thực tiễn. Cấp độ trừu xuất thứ hai (toán học) là khi trí khôn bỏ lại không chỉ những cá thể mà còn cả tính vật chất, và tập trung vào khía cạnh số lượng của chất thể như con số, hình dạng và mối liên hệ. Ở cấp độ trừu xuất thứ ba (siêu hình học) thì vật chất, số lượng, phẩm tính của sự vật đều bị loại trừ, đơn giản chỉ truy xét hữu thể như là hiện hữu. Cấp độ trừu tượng hóa đầu tiên sử dụng phương pháp quy nạp. Cấp độ trừu tượng hóa thứ hai sử dụng phương pháp diễn dịch, khi những khía cạnh định lượng được tách khỏi hữu thể vật lý. Cấp độ trừu tượng hóa thứ ba sử dụng phương pháp lý luận dựa trên các nguyên lý thuần túy của trí tuệ, như nguyên lý “mọi sự xảy ra phải có nguyên nhân”, nguyên lý không mâu thuẫn, nguyên lý túc lý, v.v.
KẾT
Siêu hình học dùng ngôn ngữ loại suy để xác định sự thống nhất giữa tất cả các thực thể tồn tại. Cả Thiên Chúa và con bọ chét đều “hiện hữu”, nhưng con bọ chét được cho là “có” hiện hữu, và chỉ mình Thiên Chúa mới “là” hiện hữu. Bản tính của Thiên Chúa là hiện hữu, trong khi đó bản chất của con bọ chét có được là nhờ vào Thiên Chúa. Tính bất tất của hiện hữu có thể được làm sáng tỏ qua nền tảng tất yếu của hiện hữu. Có bao nhiêu hữu thể cá biệt thì có bấy nhiêu cách thế “là”, nhưng chỉ qua ngôn ngữ loại suy chúng ta có thể nói về cái “là” của Thiên Chúa. Bởi vì, sự tồn hữu của Thiên Chúa thì vượt trên mọi phạm trù "hiện hữu”, và không có cách thế nào khác để so sánh hay mô phỏng tính “vô cùng” về sự hiện hữu của Ngài. Nhận thức được sự khác biệt hữu thể luận trong cách dùng ngôn ngữ loại suy, triết học có thể nói về nhiều thể cách tồn tại khác nhau, cả mức độ tự nhiên hay siêu nhiên, vật chất hay phi-vật chất. Triết học có thể cho chúng ta tri thức tổng quát về sự tồn tại của thiên nhiên và Thiên Chúa. Như thế, triết học siêu hình có thể tạo nên cầu nối ngôn ngữ giữa khoa học thực nghiệm và thần học tự nhiên.
Fr. Joseph Tân Nguyễn, OFM
Tài liệu tham khảo:
Joseph Tân Nguyễn, OFM. Triết học về Thiên Nhiên. NXB Đồng Nai, 2022.
Alan Wolter, OFM. Cosmology. Quincy University, Quincy, IL, 1976.
D.Q. McInerny. The Philosophy of Nature. The Alquyn Press, Lincoln, NE, 2001.