EDWARD SCHILLEBEECKX
Edward Cornelius Florentius Alfons Schillebeeckx sinh ngày 12 tháng 11 năm 1914 trong một gia đình trung lưu gốc Flemish tại vùng Antwerp, Bỉ. Ông gia nhập Tỉnh dòng thánh Đa-minh miền Flamish tại Ghent, học tập tại Cộng đoàn Đa-minh Louvain và chịu chức linh mục vào năm 1941. Schillebeeckx hoàn tất chương trình học tại Louvain vào năm 1943 và sau đó, ông bắt đầu dạy thần học tại Cộng đoàn Đa-minh. Cuối thế chiến thứ II, ông chuyển về Le Saulchoir, phân khoa Đa-minh tại Pa-ri để tiếp tục luận án tiến sĩ và tham dự các buổi diễn thuyết tại Sorbonne – đại học Pháp – cũng như tại Le Sauchoir, nơi Yves Congar và Marie Dominique Chenu giảng dạy. Schillebeeckx đã xin Chenu làm giáo sư hướng dẫn luận án cho mình. Sau đó, ông tiếp tục nhận sự giúp đỡ của vị giáo sư này để hoàn tất những nghiên cứu lịch sử cũng như những vấn đề về công lý xã hội đang thách đố giáo hội thời bấy giờ. Hai đề tài trên có nhiều tác động đến công việc của ông sau này. Ông hoàn tất luận án của mình vào năm 1951. Một năm sau, luận án trên đã được xuất bản với tựa đề De Sacramentele Heilseconomie (Sacramental Economy of Salvation = Nhiệm cục cứu độ mang tính bí tích). Sau đó, thay vì cho ra đời bộ thứ hai như dự kiến, ông lại viết một bài viết ngắn nhưng khá nổi tiếng với tựa đề Christ the Sacrament of Encounter with God (Đức Ki-tô, Bí tích của sự gặp gỡ với Thiên Chúa). Năm 1958, ông được chỉ định làm chủ tịch Phân khoa Tín lý và Lịch sử Thần học tại Đại học Công giáo Nijmegen, Hà Lan. Đây là nơi ông sẽ dạy học cho đến khi nghỉ hưu vào năm 1983. Schillebeeckx tham dự Công đồng Va-ti-ca-nô II trong tư cách là cố vấn của các Giám mục Hà Lan. Và mặc dù chưa bao giờ phục vụ như một “peritus” chính thức tại Công đồng nhưng ông lại có nhiều ảnh hưởng trong việc phác thảo Thư mục vụ của các Giám mục Hà Lan vào năm 1960.
Schillebeeckx đã đóng góp cho thần học nhiều thể loại phong phú. Những phương pháp thần học cơ bản của ông được thay đổi và phát triển không ngừng (over time). Sự thay đổi ấy có thể được xem như là một sự chuyển đổi từ cách thức tiếp cận hiện tượng luận sang những cách thức tiếp cận mang tính chất lịch sử, chú giải học và chính trị hơn. Sự chuyển đổi ấy không chỉ nằm ở phương pháp nhưng còn nằm cả trong nội dung thần học của ông. Những tác phẩm đầu tay của Schillebeeckx tập trung vào thần học bí tích. Trong số đó, một vài tác phẩm đề cập đến bản chất của các bí tích cách tổng quát, về bí tích Thánh thể cũng như hôn nhân đã tạo được những ảnh hưởng nhất định. Trong những tác phẩm đầu tay, ông thích sử dụng những phạm trù hiện tượng luận về gặp gỡ nhân vị (phenomenological categories of personal encounter) để giải thích hiệu quả của các bí tích hơn là sử dụng các phạm trù nhân quả của A-rit-tốt truyền thống giống như thần học truyền thống của trường phái Tô-ma thường hay sử dụng. Trong những tác phẩm viết về Ki-tô học và thừa tác vụ sau này, ông lại ưa dùng phương pháp lịch sử - xã hội nhiều hơn. Những nghiên cứu Ki-tô học của ông đã làm nảy sinh những vấn đề lịch sử hóc búa liên hệ tới mối tương quan giữa Đức Giê-su của lịch sử và Chúa Ki-tô của niềm tin, một chủ đề thống trị trong nền thần học Tin lành như chúng ta biết. Chính vì vậy, phương pháp luận mà ông khai triển mang tính lịch sử và phân tích hơn là mang tính hiện tượng luận. Do đó, ông bắt đầu tiếp cận thần học từ khía cạnh thực tế của con người Đức Giê-su hơn là từ khía cạnh Ki-tô học. Đồng thời, ông đã đưa (appealed) lý thuyết phê bình đương thời vào trong những hiểu biết lịch sử, xã hội và thừa tác vụ của mình.
Tác phẩm đầu tiên của Schillebeeckx không những mang dấu ấn của Thần học mới nhưng còn có phương pháp hiện tượng luận của Dominic De Petter và Maurice Merleau-Ponty (1908-1961). Khi phân tích khía cạnh đức tin trong kinh nghiệm của con người, Schillebeeckx nhấn mạnh rằng kinh nghiệm của con người xảy ra đồng thời bên trong một khung khái niệm và ngôn ngữ. Khung phân tích (interpretative frameworks) và kinh nghiệm cùng sánh đôi với nhau. Từ Maurice Merleau-Ponty, Schillebeeckx khám phá (pick up) ra ngôn ngữ gặp gỡ và đối thoại. Sự hiện diện của Đức Ki-tô trong các bí tích được ông phân tích bằng khung hiện tượng luận này. Vì thế, ông sử dụng phạm trù gặp gỡ hiện tượng luận để phát triển thần học bí tích, đối lập với các phạm trù nhân quả của A-rít-tốt trong việc giải thích hiệu quả của các bí tích.
THẦN HỌC BÍ TÍCH
Như chúng ta đã biết, Schillebeeckx đã dùng thần học bí tích của thánh Tô-ma làm chủ đề cho luận án của mình. Và sau đó ông đã viết một tuyển tập hệ thống khá nổi danh là “Đức Ki-tô, Bí tích của sự gặp gỡ với Thiên Chúa.” Trọng tâm của tác phẩm là việc phân tích các bí tích bằng những thuật ngữ hiệp thông nhân vị giữa Thiên Chúa và con người. Trước hết, ông phân tích Ki-tô học của Công đồng Chalcedonia. Trong đó, ông đã nhìn thấy cuộc sống mang tích bí tích của giáo hội được hiểu như là một sự tiếp nối cuộc sống mang tính bí tích của Đức Giê-su. Qua thân xác phục sinh của mình, Đức Ki-tô đã hoạt động một cách vô hình trong thế giới này thế nào thì Ngài cũng hoạt động cách hữu hình trong và qua thân xác thể lý của Ngài là Giáo hội theo cùng một cách thức như vậy. Các bí tích cũng được xem là những hoạt động cứu độ cá nhân của Đức Ki-tô được nhận biết như là những công việc có tính tổ chức bên trong giáo hội theo cùng một cách thức như thế.
Cống hiến chủ yếu cho thần học bí tích của Schillebeeckx là việc ông đã chuyển đổi những khái niệm kinh viện về nhân quả sang lối giải thích các bí tích cũng như những hiệu quả của chúng bằng các khái niệm mang tính hiện tượng luận hay kinh nghiệm nhiều hơn. Ông phê bình lối tiếp cận quá máy móc và và nặng tính nhân quả của thần học kinh viện: “Hậu quả của khuynh hướng này đưa tới một lối tiếp cận hoàn toàn thiếu nhân vị và máy móc ở chỗ: các bí tích chủ yếu bị đưa vào các thuật ngữ của những phạm trù vật lý. Khuynh hướng này, dù theo một cách thức đặc biệt, vẫn xem các bí tích như là hậu quả của luật nhân quả tổng quát.
Schillebeeckx đề nghị một lối tiếp cận mang tính nhân vị dựa trên phạm trù gặp gỡ. Vì, theo ông, các bí tích là: “những khoảnh khắc cao điểm. Bởi vì các bí tích là sự tiếp xúc thánh thiêng đặc biệt với con người trong một hoàn cảnh quyết định cho sự sống theo quan điểm Ki-tô giáo. Con người thực sự gặp gỡ với Đức Ki-tô qua trung gian của các bí tích. Trong đó, họ kinh nghiệm nhu cầu đặc biệt và cấp bách được kết hợp với Đức Ki-tô, một trong những đòi hỏi quan trọng của đời sống người tín hữu.”
ĐỨC GIÊ-SU – VỊ NGÔN SỨ CÁNH CHUNG
Người ta thấy có một sự biến chuyển và một hướng đi mới trong tác phẩm của Schillebeeckx khi ông cho xuất bản ba tuyển tập lớn về Đức Giê-su lịch sử và sự phát triển của Ki-tô học vào những thập niên 70 – 80. Qua đó, có thể cho rằng, ông đã ý thức hơn về vai trò của sử tính trong thần học của mình cho dù trước đó, ông vẫn luôn quan tâm đến tính chất lịch sử trong các tác phẩm thần học bí tích của mình. Nhưng điều đáng chú ý là những điểm nhấn lịch sử mới này đã thay đổi khởi điểm suy tư thần học của ông. Trước đây, ông thường bắt đầu những tác phẩm về bí tích bằng cách khai triển tín lý của Chalcedoni về Đức Ki-tô và mối tương quan của chúng với thần học bí tích. Tuy vậy, nay Schillebeeckx lại bắt đầu bằng việc tái cấu trúc và phân tích những chuỗi đa dạng của truyền thống trong Tân Ước. Ông ưu tiên khai thác bối cảnh xã hội và văn hóa nằm sau sự phát triển của những hướng đi (trajectory) đa dạng và của những truyền thống truyền khẩu về Đức Giê-su hơn là những gì được trình bày cách rõ ràng trong các Tin mừng Nhất lãm. Ông cho thấy những hướng đi ấy đã cho ra đời những hiểu biết và những công thức (formulas) đa dạng về Đức Giê-su trong Tân Ước như thế nào; và cách thức chúng đưa tới việc phát triển Ki-tô học vào những thế kỷ sau đó.
Schillebeeckx bắt đầu nghiên cứu nguồn gốc lịch sử của niềm tin Ki-tô giáo sơ khai với tác phẩm về Đức Giê-su vào năm 1974 với tựa đề: Một cuộc khảo nghiệm Ki-tô học (An experiment in Christology). Tiếp theo đó là quyển “Đức Ki-tô” (1977) và “The Interim Report on the Books Jesus and Christ”. Nội dung của tác phẩm sau là những thảo luận xung quanh những tranh cãi xuất hiện sau khi phát hành hai tác phẩm đầu tiên. Tuyển tập thứ ba về Ki-tô học đã không được phát hành như dự kiến. Thay vào đó là một tuyển tập về Giáo Hội (1989), trong đó, ông trực tiếp trình bày những hiểu biết của mình về Giáo hội và về thừa tác vụ.
Schillebeeckx đã thực sự mang ơn Helmut Koester, một giáo sư Tân ước tại Đại học Harvard, nơi Schillebeeckx thường ghé thăm khi ông bắt đầu công việc nghiên cứu của mình, vì những tác phẩm bình luận của Koester đã giúp ông trong việc tìm ra sự tiến triển của những tín điều Ki-tô giáo tiên khởi về Đức Giê-su. Tiếp nối Koester, Schillebeeckx đã phát hiện ra bốn tín điều Ki-tô giáo sơ khai. Tín điều thứ nhất là Ma-ra-na-tha, còn gọi là tín điều Perousia, đề cập đến việc Đức Giê-su loan báo sự gần kề của Nước Trời. Tín điều này xem Đức Giê-su là Đức Chúa, Đấng sẽ đến và mang lại ơn cứu độ cho tương lai. Tín điều này chi phối “nguồn Q”, tức cộng đoàn đón nhận tín điều này, cũng như chi phối cả Tin mừng Mác-cô. Tín điều thứ hai, “thánh nhân” (divine man – theios anèr), tập trung vào những phép lạ của Đức Giê-su. Tín điều này diễn giải quyền năng của Đức Giê-su khi so sánh Người với những vị thần Hy - La. Tín điều thứ ba, đến từ những truyền thống khôn ngoan, đã thu thập những bài giảng của Đức Giê-su và giải thích Đức Giê-su trước hết là một vị thầy dạy sự khôn ngoan. Trong đó, có một truyền thống (thường được gọi là truyền thống bên dưới vì ít đề cao Đức Giê-su) chỉ xem Đức Giê-su như một sứ giả hay một ngôn sứ của Khôn ngoan. Một truyền thống khôn ngoan khác (được gọi là truyền thống trên cao vì đề cao Đức Giê-su) lại giải thích Đức Giê-su là chính sự Khôn ngoan (Sophia). Tín điều thứ bốn, tín điều Phục sinh, thịnh hành trong các tác phẩm của Phao-lô, lấy khởi điểm là sự chết và sống lại của Đức Giê-su. Truyền thống này chủ yếu giải thích Đức Giê-su là Đấng dã chịu đóng đinh và phục sinh.
Mặc dù luôn ý thức rằng nội dung của các Tin mừng là những lời giải thích về Đức Giê-su từ kinh nghiệm đức tin của các Ki-tô hữu tiên khởi, nhưng Schillebeeckx vẫn tìm kiếm trong đó để tìm ra khuôn mặt của một Đức Giê-su lịch sử ẩn phía sau những tín điều trên. Schillebeeckx đã khởi đi từ hai điểm tái cấu trúc của Helmut Koester. Nhưng trong khi Koester ưu tiên tín điều Phục sinh thì Schillebeeckx lại nhấn mạnh đến sự hiểu biết về Đức Giê-su như là một vị ngôn sứ cánh chung. Hơn nữa, qua việc “nhận dạng” Đức Giê-su như thế, Schillebeeckx tìm cách làm cho Đức Giê-su lịch sử mặc lấy ý nghĩa thần học nhiều hơn. Ông thực hiện điều này bằng cách khai thác kinh nghiệm về Thiên Chúa là Abba của Đức Giê-su (đối với một số học giả, đây là cách gọi thân thương gần gũi hơn so với cách gọi trịnh trọng là Cha) nền tảng của những “hướng đi” tín điều đa dạng trên. Trong Đức Giê-su, chúng ta phải đối diện với một ai đó nằm bên ngoài kinh nghiệm Abba cá nhân của Người. Kinh nghiệm ấy cho chúng ta một lời hứa chắc chắn về một “tương lai với và đến từ Thiên Chúa.” Và thực tế, thừa tác vụ của Người đã cho chúng ta thấy điều đó. Nếu tách khỏi tính xác thực của kinh nghiệm Abba nguyên thủy này, sứ điệp của Người chỉ là một ảo tưởng.
Việc tái cấu trúc lịch sử của Schillebeeckx còn phục vụ cho một mục đích có tính hệ thống. Mỗi một tín điều trên đều có thể được xem như một lời giải thích về Đức Giê-su, một Đức Giê-su có tương quan với một chân trời xã hội và văn hóa khác biệt bên trong Ki-tô giáo sơ khai. Những phát triển ấy đến thời Công đồng Nicea và Chalcedonia chỉ trình bày cụ thể một trong những sự phát triển của những “hướng đi” trên. Vì thế Schillebeeckx có thể khẳng định rằng: “chúng ta bị định hướng để nhìn nhận rằng Tân Ước cũng như những lời giải thích sau này về Đức Giê-su là một trong số những ‘hướng đi’ được đặt bên trong những chân trời kinh nghiệm và hiểu biết rất cụ thể; that as such....... must be thought out.”
Trong khi các bản văn Tân Ước tiết lộ những hướng đi đa dạng của Ki-tô học bên trong những chân trời khác biệt về kinh nghiệm và phân tích thì lịch sử Ki-tô giáo lại cho thấy rằng trong các Tin mừng Nhất lãm cũng có tình trạng trọng dụng mô biểu này mà bỏ rơi hay làm tổn thương những mô biểu hay hướng đi khác. Schillebeeckx chỉ ra rằng kể từ Công đồng Nicea trở đi, một mô biểu Ki-tô học cụ thể - Johannine – đã được phát triển như một tiêu chuẩn trong những giới hạn chật hẹp và được định hướng... (và) khoa lịch sử chưa bao giờ đối xử công bằng với những khả năng vốn có trong mô biểu nhất lãm; sự năng động cụ thể của mô biểu này đã bị kiểm soát và chận đứng, sau đó đã bị loại bỏ và trở thành những “chân lý bị lãng quên” của Ki-tô giáo
Đàng sau bản phác thảo lịch sử này là sự phân biệt quan trọng một cách có hệ thống của ba cấp độ lịch sử: nhất thời (sureface), cục diện (conjunctural) và cấu trúc (structural). Cấp độ bề mặt bao gồm các sự kiện, các biến cố và những sự việc xảy ra trong lịch sử. Cấp độ hoàn cảnh bao gồm những đơn vị lớn hơn của lịch sử như văn minh Hy lạp – La mã, chế độ phong kiến trung cổ, chủ nghĩa tư bản hiện đại... Những đơn vị lớn hơn này cung cấp những khung (frameworks) để giải thích các sự kiện bề mặt. Cuối cùng là những đặc điểm mang tính cấu trúc. Đó là những cấu trúc nhân học tồn tại liên tục trong dòng lịch sử. Schilebeeckx đã sử dụng sự phân biệt đa chiều này để giải quyết những vấn đề đang gây tranh cãi liên quan đến tính liên tục và thay đổi bên trong lịch sử Ki-tô giáo. Không chỉ có sự thay đổi về những giai đoạn mang tính hoàn cảnh, như sự thay đổi từ văn minh Hy lạp sang chế độ phong kiến và sau đó là xã hội hiện đại, nhưng còn có sự thay đổi cả về những cấu trúc nhân học. Vấn nạn đặt ra cho Schilebeeckx là trung tâm điểm của đòi hỏi lịch sử này là căn tính của Ki-tô giáo. Những tác phẩm về Ki-tô học của ông đã bị lôi cuốn theo hướng này đến nỗi ông nhấn mạnh bối cảnh lịch sử và văn hóa đa dạng của những tín điều Ki-tô giáo sơ khởi cũng như những “hướng đi” của chúng. Một vấn nạn được đặt ra là: đâu là mối tương quan giữa những “hướng đi” này và hoàn cảnh hiện tại của chúng ta? Schilebeeckx đã phát triển phương pháp tương quan liên đới để trả lời cho vấn nạn trên.
PHƯƠNG PHÁP TƯƠNG QUAN LIÊN ĐỚI
Phương pháp tương quan liên đới đưa đến cho Schilebeeckx một tương quan kép, một tương quan tương đồng đối xứng (analogy of proportion) được lấy từ tri thức Tô-ma hơn là một tương quan tương đồng đặc tính (analogy of attribution). Việc phân biệt giữa hai sự tương đồng này đóng một vai trò quan trọng đối với sự trở lại của Tân Kinh viện ở thế kỷ XX. Hơn thế nữa, cách Schilebeeckx sử dụng khái niệm tương đồng đối xứng trong việc đưa ra phương pháp tương quan liên đới đã minh họa cho sắc thái trong phương pháp thần học của ông. Sự tương đồng đặc tính đã phản hồi lại bằng cách lập luận rằng: thuốc men hoặc chất dinh dưỡng được xem là có lợi cho sức khỏe vì chúng có hiệu quả cho sức khỏe con người. Do có sự tương tự hay tương quan giữa hậu quả và nguyên nhân nên nguyên nhân, tức chất dinh dưỡng được xem là có lợi cho sức khỏe. Áp dụng trong thần học, một người có thể nói rằng Thiên Chúa tốt lành và khôn ngoan bởi vì những ảnh hưởng của hành vi sáng tạo của Thiên Chúa là tốt lành và khôn ngoan. Tuy vậy, tương đồng đặc tính lại phải dựa vào một sự tương tự cân xứng. Sự tốt lành của Thiên Chúa tương ứng với sự hiện hữu của Người khi đặt trong mối tương quan và tương đồng với sự tương ứng giữa cái tốt lành và sự hiện hữu của con người. Sự khác biệt giữa tương đồng đặc tính và tương đồng đối xứng là điều đáng quan tâm. Tương đồng đặc tính chiếm vị trí có thể được xem là nền tảng của sự tương đồng hơn so với tương đồng đối xứng. Trong phạm vi đó, sự hiện hữu của Thiên Chúa không cân xứng với sự hiện hữu của con người; do vậy, sự tốt lành và khôn ngoan của Thiên Chúa cũng khác biệt so với sự tốt lành và khôn ngoan của con người. Có một sự tương đồng giữa Thiên Chúa và con người nhưng không phải là sự tương đồng về căn tính hay sự tương tự nhưng như một sự cân xứng về cấu trúc.
Làm sao tương quan kép này lại có liên hệ tới mối quan tâm lịch sử của Schilebeeckx về căn tính của Ki-tô giáo? Trước tiên, Schilebeeckx không khẳng định rằng có một sự tương ứng giữa kinh nghiệm tôn giáo hiện tại của chúng ta với những biểu tượng kinh thánh của đức tin. Thay vào đó, khi sử dụng ví dụ về sự khác biệt trong hai khái niệm tương đồng của Tô-ma, Schilebeeckx lập luận rằng kinh nghiệm tôn giáo và đức tin của các Ki-tô hữu tiên khởi có tương quan với bối cảnh văn hóa xã hội và những cách thức biểu lộ đức tin của họ trong bối cảnh ấy. Cũng vậy, có một tương quan giữa kinh nghiệm, công thức (formulations) cũng như văn hóa và kinh nghiệm cũng như đức tin tôn giáo của chúng ta. Vì thế, những gì có tương quan với nhau là mối liên hệ cân xứng xuất hiện trong Ki-tô giáo sơ khai và trong Ki-tô giáo hiện nay.
Schilebeeckx đưa phương pháp tương quan cân xứng này đi xa hơn bằng bốn nguyên tắc. Những nguyên tắc này nêu ra căn tính cơ bản hoặc tính liên tục giữa những khác biệt lịch sử và thay đổi văn hóa. Nguyên tắc thứ nhất là nguyên tắc thần học và nhân học: Thiên Chúa đem ơn cứu độ đến cho con người. Ơn cứu độ từ Thiên Chúa đến với con người. Nguyên tắc thứ hai là chiêm ngưỡng Ki-tô học. Đức Giê-su Na-za-rét đã thể hiện kế hoạch của Thiên Chúa. Nguyên tắc thứ ba: Cộng đoàn Ki-tô hữu hay Giáo hội tiếp tục câu chuyện về Đức Giê-su. Nguyên tắc thứ tư là sự viên mãn cánh chung. Câu chuyện về Đức Giê-su chưa đến hồi viên mãn trong trật tự trần thế nhưng hướng về Nước trời như một sự viên mãn cánh chung. Vì thế, giữa tất cả những thay đổi, các cộng đoàn Ki-tô hữu vẫn duy trì một sự liên tục đến nỗi họ tìm kiếm để phục vụ và kéo dài sự hiện diện cứu độ của Đức Giê-su, điều Người đã biểu lộ qua những giáo huấn và công việc của Người.
MÂU THUẪN BÊN TRÊN THỪA TÁC VỤ
Vào thập niên 80, Schilebeeckx đã xuất bản một tuyển tập gồm bốn bài viết, sau đó đã được tổng hợp thành một cuốn sách với tựa đề: “Thừa tác vụ: Vai trò lãnh đạo trong Cộng đoàn của Đức Giê-su Ki-tô”. Những bài viết này đánh dấu tính liên tục trong các tác phẩm đầu tay của ông về các bí tích và thừa tác vụ trong giáo hội. Trong khi thừa tác vụ không còn là đề tài quan trọng trong các buổi thảo luận thần học Công giáo hiện hành thì tác phẩm của Schilebeeckx lại trở thành ấn bản gây nhiều tranh cãi nhất. Tác phẩm đã việc hiểu biết thừa tác vụ trong lịch sử Ki-tô giáo đã có nhiều thay đổi lịch sử lớn lao và lưu ý đến hoàn cảnh mục vụ đã thay đổi trong Giáo hội La mã sau Công đồng Va-ti-ca-nô II. Một trong những thay đổi ấy là việc thiếu linh mục một cách khủng khiếp (nhất là ở tại Châu Âu). Điều đó đã dẫn đến tình trạng nhiều cộng đoàn không có các thừa tác viên Thánh Thể. Những giải thích cũng như những đề nghị cải cách của Schilebeeckx đã gây nên nhiều tranh luận. Nhiều người ủng hộ những nghiên cứu của ông cách nhiệt tình nhưng cũng không thiếu những người phê bình ông gay gắt. Bộ Giáo lý và Đức tin của Va-ti-ca-nô đã bắt đầu điều tra. Schilebeeckx được triệu tập về Rô-ma để thẩm vấn. Năm 1984, Hồng y Ratzinger chính thức ban hành và ký một văn bản phê bình những yếu tố chính trong tác phẩm của Schilebeeckx. Cuốn sách trở nên nổi tiếng và gây ra tiếng vang đến nỗi Ủy Ban Giáo lý của Hiệp hội các Giám mục liên bang đã cảm thấy buộc phải xuất bản nhiều bản dịch Anh ngữ trong số những bài phê bình được chú ý ở Châu Âu. Để đáp lại những phê bình trên, Schilebeeckx cho xuất bản quyển thứ hai: Giáo hội với khuôn mặt nhân loại (The Church with human face) vào năm 1985. Tuy mang một tựa đề mới nhưng nội dung của tác phẩm đều lấy lại hầu hết nội dung của những tác phẩm trước với một vài thay đổi và nhiều phần thêm vào.
Vậy, đâu là những luận đề gây tranh cãi về tác phẩm Thừa tác vụ của Schilebeeckx? Trước hết, Schilebeeckx cho rằng có một sự thay đổi tiệm tiến nhưng cơ bản trong việc nhận thức về thừa tác vụ giữa thiên niên kỷ thứ nhất và thiên niên kỷ thứ hai. Quyển sách bắt đầu bằng việc khảo sát về thừa tác vụ trong Tân ước và trong giáo hội sơ khai để tìm ra tình trạng thay đổi, định hướng đặc sủng và cộng đoàn của nó và cũng để lần ra sự phát triển tiệm tiến của chức giám mục. Schilebeeckx đã nêu ra (appeal) khoản luật thứ sáu của Công đồng Chancedonia và truyền thống phụng vụ sơ khai để tạo nên một điểm quan trọng. Khoản luật của Công đồng này tuyên bố việc thụ phong tuyệt đối không có giá trị khi việc thụ phong của một cá nhân không dính dáng gì tới việc phục vụ một cộng đoàn cụ thể. Một khoản luật tương tự nhấn mạnh rằng các thừa tác viên sẽ trở lại tình trạng giáo dân sau khi kết thúc công việc phục vụ cộng đoàn của mình. Thêm vào đó, Schilebeeckx nêu ra câu nói của Tertuliano rằng: trừ những trường hợp ngoại lệ, cộng đoàn phải tự chọn cho mình một vị chủ tọa. Hệ quả mà ông rút ra từ khoản luật của Công đồng và từ Tertuliano là liệu Giáo hội Công giáo hiện nay, với tình trạng thiếu vắng linh mục, có nên cho phép những cộng đoàn đề cử những giáo dân đứng ra để cử hành Thánh Thể không? Nhưng kết luận này dường như trái với quan điểm về bản chất của chức linh mục của Giáo lý Công giáo hiện đại. Để biện minh cho giá trị trong quan điểm của mình, Schilebeeckx đã phải đau khổ để chứng minh rằng có nhiều thay đổi dứt khoát đã diễn ra, chức linh mục vốn có tính chức năng và thừa tác vụ nay lại có tính hệ thống (cultic) và hữu thể học nhiều hơn. Ông đã nêu ra những dẫn chứng về sự thay đổi này: Công đồng Lateran III và IV cũng như những tác phẩm của Josse Chitove (1472-1543) đã trình bày chức linh mục trước hết bằng những thuật ngữ hệ thống; phản ứng của Công đồng Trent khi đối diện với quan điểm của Luther về tính phổ quát của chức linh mục. Cuối cùng, có một quan điểm nổi bật cho rằng linh mục khác biệt với giáo dân không chỉ về mức độ nhưng còn về bản chất. Vì vậy, Học thuyết Công giáo Rô-ma khi chống lại phong trào Cải cách đã ngày càng nhấn mạnh hơn đến đặc tính duy nhất của chức linh mục đặc biệt. Sau đó, Trường phái linh đạo Pháp đã phát triển một thứ linh đạo cụ thể của chức linh mục. Do linh mục là một “Đức Ki-tô khác” (Alter Christus), không giống với người giáo dân nên cần phát triển một linh đạo phù hợp với tình trạng đặc thù của linh mục trong Giáo hội.
Tiến trình phát triển dài này đã cho ra đời một nhận thức quá nhấn mạnh đến tính bí tích của chức thánh đến nỗi xem linh mục và giáo dân có một sự khác biệt từ bản chất (hữu thể học = ontological). Nhận thức này xem việc truyền chức theo khía cạnh bản chất độc nhất của người linh mục hơn là theo khía cạnh phục vụ cộng đoàn. Quan niệm tuyệt đối về việc truyền chức như thế đã đi ngược lại một cải cách của Giáo hội. Đó là tìm cách trở lại với lối thực hành của Giáo hội tiên khởi và tạo điều kiện để người giáo dân chủ tọa Thánh Lễ trong những cộng đoàn thiếu vắng những linh mục chịu chức hợp lệ.
Trong tác phẩm “In the Church with a Human Face”, Schilebeeckx đã không thay đổi những luận đề trong các tác phẩm trước. Hơn thế nữa, ông cố gắng đưa ra thêm những luận chứng mang sắc thái lịch sử hơn bằng cách chú ý đến những phản biện (objections). Tuy nhiên, ông cũng cố gắng củng cố những luận chứng của mình rằng thừa tác vụ đã mang lấy nhiều hình thức lịch sử khác nhau gây ra bởi những yếu tố xã hội, văn hóa và chính trị. Trong bài nghiên cứu sự phát triển của thừa tác vụ trong Giáo hội thời sơ khai của mình, ông cũng sử dụng quan điểm của Elisabeth Schussler Fiorenza về “discipleship of equals” (môn đệ tính bình đẳng) và vai trò của các giáo hội tại gia. Ông cho rằng “Ki-tô giáo sơ khai là một cộng đoàn anh chị em của các thành viên bình đẳng với nhau: tính thần học của cộng đoàn ấy dựa trên nền tảng phép rửa của Thánh Thần và xã hội tính của nó có liên quan đến mô hình của La mã Hy lạp về xã hội tự do, được gọi là Collegia.”
Nhiều yếu tố phức tạp mang tính xã hội và văn hóa đã khiến cho môn đệ tính của các thành viên bình đẳng trong Giáo hội sơ khai chuyển dần sang một giáo hội mang tính cơ cấu phẩm trật. Trong đó, có những yếu tố xã hội và chính trị xuất hiện từ khi Ki-tô giáo bắt đầu trở thành quốc giáo dưới thời Theodosius. Điều này được củng cố nhờ kết quả của việc kết hợp tư tưởng Tân Pla-tô với khái niệm xem Giáo hội như là một phẩm trật thánh của Psuedo-Dionysius
Từ thế kỷ VI, những tác phẩm về Tân Pla-tô của Psuedo-Dionysius đã có ảnh hưởng nhất định trong việc hình thành nên một cộng đoàn giáo hội mang cơ cấu phẩm trật theo mô hình kim tự tháp, một trong những biểu tượng quốc gia trần thế đánh dấu sự xuất hiện của đế quốc Hy – La.
Schilebeeckx đã bám vào những tranh cãi về lịch sử được bàn đến trong ấn bản đầu tiên của mình. Ông đã nhấn mạnh đến những thay đổi trong nhận thức về Thánh lễ ở thế kỷ VI và VII: từ quan điểm nối kết việc cử hành Thánh thể với Thập giá của Đức Giê-su trở thành quan điểm giải thích việc cử hành bí tích như là thực hiện việc hiện tại hóa hy lễ thập giá. Thêm vào đó, những thực hành tôn giáo như việc tôn kính các thánh tích đã trở nên quá phổ biến dẫn đến việc tăng cường (multiplication) các thánh lễ riêng.
Trong khi không nhắc tới việc chủ tọa thánh lễ của người giáo dân, một trong những điểm gây tranh cãi nhiều nhất, Schilebeeckx lại kết luận bằng cách đề cập đến một loại thừa tác vụ khác, một hình thức mục vụ toàn thời gian của những người có chức giám mục, linh mục và phó tế. Các nhà phê bình nhận thấy rằng Schilebeeckx đã đem lại cho luận đề của ông một hình thức mang nhiều sắc thái hơn. Tuy nhiên, họ chê ông đã không quan tâm đến giáo huấn nền tảng chẳng hạn như sự kế vị các tông đồ (tông truyền).
PHÊ BÌNH
Những thảo luận và lượng giá phê bình các tác phẩm thần học của Schilebeeckx có tính cụ thể hơn so với trường hợp của Karl Rahner hay Bernard Lonergan. Lý do là vì tính chất rất hệ thống trong các tác phẩm của họ, những phương pháp cơ bản hoặc khái niệm của họ bị phê bình, chẳng hạn như nỗ lực phát triển thần học như nhân học của Rahner hay những phác họa về cấu trúc hình thức của tri thức của Lonergan. Người ta phê bình Schilebeeckx về những vấn đề lịch sử và cụ thể hơn. Có bao nhiêu tín điều cơ bản trong Tân Ước, chỉ có bốn hay nhiều hơn? Giải thích của ông về nguồn gốc của sự phục sinh có trung tín với những dữ kiện của Tân Ước? Những khảo sát lịch sử của ông về thừa tác vụ có vô tư với những chất liệu lịch sử vốn có? Những phê bình trên đã chỉ ra rằng các tác phẩm sau này của Schilebeeckx ít bắt nguồn từ những khái niệm triết học cụ thể, một yếu tố củng cố cho thần học của ông, hơn là từ những chứng cứ lịch sử cụ thể. Ở khía cạnh này, những tác phẩm ấy đã chuyển hướng khỏi một ví trí có thể bị dán nhãn là “siêu nghiệm Tô-ma”.
KẾT LUẬN
Trong bối cảnh Tân kinh viện thế kỷ XX, các triết gia cũng như các thần học gia được đề cập đến trong chương này đã trở về với Tô-ma A-qui-nô để dùng thần học Tô-ma đối thoại với não trạng tân thời. Thần học mới đã phản biện chống lại sự phân tách nhị nguyên giữa tự nhiên và ân sủng cũng như giữa cảm xúc (như cảm giác và ước muốn) và tri thức. Việc trở về với Tô-ma đã giúp Thần học mới phát hiện ra một triết học Tô-ma chịu nhiều ảnh hưởng của tư tưởng Âu-tinh cũng như mang nhiều yếu tố Tân Pla-tô và A-rít-tốt. Thần học mới cũng tái khám phá một thần học Tô-ma có tầm nhìn thống nhất về tự nhiên và ân sủng, khác với những khám phá của Tân Kinh viện. Chịu ảnh hưởng bởi Blondel, Maréchal và Rousselot, siêu nghiệm Tô-ma đã khám phá ra tính năng động của tri thức con người (bao gồm cả vai trò của lý trí và cảm xúc) cũng như những đóng góp của tính năng động ấy cho kiến thức của con người. Henri de Lubac là ông tổ của khuynh hướng thần học quan trọng này. Karl Rahner và Lonergan đại diện cho sự phát triển của truyền thống siêu nghiệm Tô-ma mang tính Châu Âu và Anglo-Saxon nhiều hơn. Edward Schilebeeckx, thế hệ tiếp theo, đã tiến xa hơn bên kia giới mức Tô-ma và hiện tượng luận siêu nghiệm để đạt tới một nền thần học có tính lịch sử hơn. Khía cạnh lịch sử này, mặc dầu cũng đã được Rahner và Lonergan trình bày như chúng ta đã thấy, đã được phát triển với một nhận thức lịch sử mạnh mẽ hơn trong các chủ đề của Schilebeeckx, chẳng hạn như Ki-tô học. Tuy nhiên, những gì mà các thần học gia này chia sẻ cùng nhau là sự tận tâm với thần học tương quan. Họ đã khởi sự qua việc tìm kiếm mối tương quan giữa triết học Tô-ma với triết học tân thời. Trong những tác phẩm sau này, họ đã tìm cách kết nối đức tin Ki-tô giáo với nền văn hóa hiện đại.
Chưa có Đánh giá/Bình luận nào được đăng.
Hãy trở thành người đầu tiên đóng góp nội dung cho Bài viết này.