Skip to content
Main Banner
LỄ CÁC THÁNH NAM-NỮ (01/11) - Triết III bắt đầu nộp đề tài, dàn bài tiểu luận. (04/11) - HỌP HỘI ĐỒNG QUẢN TRỊ (16/11) - HỘI THẢO CHUYÊN ĐỀ THẦN (23/11) - LỄ ĐỨC MARIA VÔ NHIỄM (nghỉ bù) (09/12) - Tiết học cuối của học kì I (10/12) - Ôn thi học kì I (16/12)

LƯỢC SỬ CHÚ GIẢI KINH THÁNH

BTT HOCVIEN OFMVN
2024-04-25 22:24 UTC+7 610
Việc chú giải Kinh Thánh đòi hỏi phải xem xét ba không gian quan tâm chính: bên trong bản văn, phía sau bản văn và phía trước bản văn. Không gian bên trong bản văn tập trung vào ngôn ngữ, cấu trúc và các đặc điểm văn học của Kinh Thánh. Không gian phía sau bản văn nghiên cứu bối cảnh lịch sử, văn hóa và xã hội của tác giả và người đọc ban đầu. Cuối cùng, không gian phía trước bản văn xem xét những gì người đọc mang vào bản văn, bao gồm kinh nghiệm, hiểu biết và kỳ vọng của họ.

LƯỢC SỬ CHÚ GIẢI KINH THÁNH

Việc chú giải Kinh Thánh đòi hỏi phải xem xét ba không gian quan tâm chính: bên trong bản văn, phía sau bản văn và phía trước bản văn. Không gian bên trong bản văn tập trung vào ngôn ngữ, cấu trúc và các đặc điểm văn học của Kinh Thánh. Không gian phía sau bản văn nghiên cứu bối cảnh lịch sử, văn hóa và xã hội của tác giả và người đọc ban đầu. Cuối cùng, không gian phía trước bản văn xem xét những gì người đọc mang vào bản văn, bao gồm kinh nghiệm, hiểu biết và kỳ vọng của họ.

Mỗi không gian quan tâm này cung cấp một góc nhìn khác nhau về ý nghĩa của Kinh Thánh. Các phương pháp chú giải truyền thống thường tập trung vào không gian bên trong và phía sau bản văn. Tuy nhiên, các phương pháp hiện đại cũng chú trọng đến không gian phía trước bản văn, công nhận rằng ý nghĩa của Kinh Thánh không chỉ nằm trong bản văn, mà còn được định hình bởi sự tương tác giữa bản văn và người đọc. Bằng cách xem xét cả ba không gian quan tâm này, những người chú giải Kinh Thánh có thể có được sự hiểu biết toàn diện hơn về ý nghĩa của Kinh Thánh.


----------------------------------

Tác giả: Lm. Joseph Tân Nguyễn, ofm

luocsu-chugiai-kt-1709251908.jpg

Giới Thiệu: Kinh Thánh là “Lời của Chúa” và “Lời về Chúa”

-Đức Giêsu và các Tông Đồ chú giải Cựu Ước

-Các Tông Phụ giải quyết vấn đề “Bầu Cũ & Rượu Mới”

-Giáo Hội chú giải Kinh Thánh cho dân ngoại

-Kinh Viện: từ Sacra Pagina đến Sacra Doctrina

-Chú Giải Kinh Thánh thời Cận Đại

Lời Kết: Các vấn đề tồn đọng

 

KINH THÁNH: “LỜI CỦA CHÚA”  “LỜI VỀ CHÚA”

Có một Rabbi kia tổ chức sinh nhật cho cậu quý tử mà ông mong sau này sẽ nối nghiệp mình. Các bô lão đề nghị khi em ngủ hãy đặt lên giường em một túi tiền, một cuốn Kinh Thánh và một chai rượu nhỏ. Lúc thức dậy, nếu em cầm cuốn Kinh Thánh thì sau này sẽ trở thành Rabbi; nếu em ôm túi tiền thì sẽ làm kinh doanh như đa số người Do Thái, và nếu em lấy chai rượu thì lớn lên sẽ đam mê ăn nhậu. Một lát sau, khi họ trở lại thì thấy em bé một tay cầm cuốn Kinh Thánh, tay kia ôm túi tiền, còn miệng thì đang ngậm chai rượu! Mọi người sững sờ, bối rối, gãi đầu, không biết phải giải thích như thế nào đây... Sau một hồi suy nghĩ, cuối cùng ông bố Rabbi thốt lên: “Thôi rồi! Con trai yêu của tôi sẽ trở thành Linh mục Công Giáo!!!”

Qua ví dụ trên, ta thấy có hai quan điểm khác biệt về mục vụ: một là chỉ lo chú tâm vào việc rao giảng Torah như các Rabbi đã làm, hai là làm hết mọi sự có liên quan đến mục tiêu mở mang nước Chúa như soạn bài giảng, kiếm tiền xây nhà thờ, tổ chức các lớp giáo lý, làm việc từ thiện và giao lưu với các quan chức sao cho tốt đời đẹp đạo, v.v. Lịch sử chú giải Kinh Thánh cũng đã trải qua những thay đổi như thế. Khởi đầu, Kinh Thánh được hiểu đơn sơ là “Lời của Chúa”, ẩn dấu thực tại siêu việt mà Thiên Chúa đã mạc khải. Qua thời gian, người ta ý thức rằng tuy bản văn Kinh Thánh được mạc khải nhưng cũng do ai đó đã viết xuống cho một nhóm tín hữu thuộc bối cảnh nào đó, về Thiên Chúa. Vì thế, muốn chú giải Kinh Thánh, không chỉ cần có một tâm hồn khao khát sự thánh thiện và khả năng hiểu biết ngôn từ của bản văn mà còn cả về bối cảnh xuất xứ và ý định của tác giả (không gian phía sau bản văn) cùng với nhu cầu đức tin của cộng đoàn đón nhận bản văn hay các độc giả tương lai (không gian phía trước bản văn). Qua lịch sử, cả hai cách hiểu về Kinh Thánh như là “Lời của Chúa” và “Lời về Chúa” đã tồn tại song song với nhau. Phụng vụ thường nhấn mạnh về quan điểm thứ nhất, còn thần học thì được khai triển dựa trên quan điểm thứ hai.

Tự bản văn thì không có gì thay đổi, nhưng muốn hiểu Kinh Thánh như là“Lời về Chúa” thì sẽ cần nhiều kỷ năng chú giải chuyên biệt hơn. Suốt hơn mười hai thể kỷ đầu, việc diễn giải Sách Thánh (Sacra Pagina) được tiến hành song song với quá trình phát triển của Giáo Lý thánh (Sacra Doctrina). Đến thời Khai Sáng, việc chú giải được mở rộng bao gồm những tác phẩm cổ điển, các nền văn hóa xa lạ và luật pháp, từ đó, khoa giải thích học được thành hình, nghiên cứu điều kiện cho việc am hiểu mọi đối tượng mà ý nghĩa đã bị mơ hồ vì khoảng cách lịch sử hay phạm trù tri thức. Đến thể kỷ XX, giải thích học được kết nối với hiện tượng luận và triết hiện sinh và trở thành một loại triết học thông diễn về hiện tượng “hiểu” như là cách con người tồn tại. Sự kiện này đánh dấu “khúc quanh ngôn ngữ” trong triết học hiện đại,

Bài này sẽ được giới hạn trong phạm vi chú giải Kinh Thánh. Trước tiên, Đức Giêsu và các Tông Đồ đã dùng dụ ngôn và phương pháp ứng nghiệm để giải thích Torah trong bối cảnh mục vụ của mình. Kế tiếp, các Tông phụ khi phản biện lại cách tách biệt quá khích của phái Ngộ giáo giữa “bầu cũ” với “rượu mới” đã giới thiệu một số nền tảng cho tính “linh ứng” của Kinh Thánh. Các Giáo phụ sau thế kỷ III đã thêm vào yếu tố “thánh truyền” để bảo vệ tính vẹn toàn của mặc khải giữa sự đa dạng của các trường phái chú giải Kinh Thánh. Thời Trung Cổ, với học thuyết “bốn ý nghĩa” của bản văn thì việc chú giải Kinh Thánh đã trở nên tinh vi hơn, và cuối cùng ngành nghiên cứu về các tín khoản (sacra doctrina) được tách biệt ra thành nền tảng cho thần học tín lý tương lai. Thời Cận Đại với khát vọng muốn phục hồi ý nghĩa chính xác của bản văn, phong trào Cải Cách và Phục Hưng đã khai triển sâu sắc hơn về không gian “phía sau” bản văn (ý định và cá tính của tác giả, bối cảnh văn hóa, hình thức ngôn ngữ). Từ đó, “giải thích học” đương nhiên trở thành phương pháp nghiên cứu chung cho ngành nhân văn học chứ không riêng gì về Kinh Thánh nữa.

ĐỨC GIÊSU VÀ CÁC TÔNG ĐỒ CHÚ GIẢI CỰU ƯỚC

Mục tiêu của việc chú giải Torah (lề luật) trong Do Thái giáo là giúp các tín đồ nắm bắt được bản chất thiêng liêng của nó, tức là sự hiện diện của Yaweh. Các Kinh sư dùng phương pháp Aggadah để khai triển khía cạnh luân lý để giúp tín đồ vươn lên đến Torah, và phương pháp Kabbalah để suy diễn trật tự thánh thiêng của vũ trụ và ý nghĩa thần bí của Torah. Được sinh ra và trưởng thành trong Do Thái giáo, Đức Giêsu, thánh Phaolô và các tông đồ rất quen thuộc với các lối chú giải này. Họ đã thêm vào những nguyên tắc chú giải mới cho phù hợp với nhu cầu sứ vụ của mình, và đã dùng Cựu Ước để chứng tỏ rằng biến cố Kitô chính là thực tại của những hình bóng mà Cựu Ước đã nói đến.

Đức Giêsu chú giải Cựu Ước

Các Kinh Sư Do Thái giáo cho rằng toàn thể Torah xuất phát từ thẩm quyền của Thiên Chúa và được mặc khải qua lời của Môisen, nhưng Đức Giêsu phân biệt giữa luật Thiên Chúa và luật của Môisen đặt ra cho đám dân cứng lòng trong sa mạc (Mc 10:2). Đôi khi Thần Khí Thiên Chúa nói qua con người, như trong trường hợp Môisen cho phép dân ly dị hoặc Vua David ăn bánh thánh dâng trong đền thờ. Đức Giêsu tố cáo các Kinh sư đã lạm dụng và coi thường luật Thiên Chúa. Họ chỉ lo giữ truyền thống (Mc 7:9), qui luật phụng vụ (Mc 2:25), và nghi thức thanh tẩy (Mc 7) của họ.

Nhưng làm sao phân biệt được khi nào thì chú giải Kinh Thánh được soi sáng bởi Thần Khí Thiên Chúa và khi nào thì bị lạm dụng bởi lề luật? Cách trả lời của Đức Giêsu thường nhắm vào lòng thương xót của Thiên Chúa (Mt 9:13), nhu cầu hoán cải tâm hồn của tội nhân (Isa 29:13), và phục hồi nền tảng luân lý của lề luật. Đức Giêsu phản đối việc dùng nơi thờ phượng để kinh doanh (Mc 11:17). Người đặt lòng nhân từ của Thiên Chúa trên lề luật, nhu cầu chữa lành trên ngày Sabbath (Jn 7:22), và truyền thống ngôn sứ trên truyền thống tư tế. Người tóm tắc sách Đệ Nhị Luật vào điều răn “Yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự” (Mc 9:29) và thêm vào đó đòi hỏi của Liviticus “yêu tha nhân như chính mình” (Mc 12:31). Người dùng thẩm quyền của chính mình khi tuyên bố, “Không có quy luật nào cao cả hơn các quy luật này”, và tất cả luật lệ và ngôn sứ đều bao gồm trong hai qui luật này (Mt 22:40).

Một nguyên tắc khác nữa là tính độc lập trong cách Đức Giêsu chú giải Kinh Thánh. Người thường nói. “Anh em đã nghe… nhưng tôi nói.” Cho dù Đức Giêsu phê bình thái độ khắc khe về lề luật của nhóm Pharisêu nhưng Người không coi thường luật lệ, trái lại đã củng cố và phục hồi ý nghĩa chân chính của lề luật và lời ngôn sứ, vì các lời đó đang nói về Người. Chính Người là sự ứng nghiệm của các ngôn sứ, “Thời gian đã mãn và Nước Thiên Chúa đã gần kề” (Mc 1:15). Đây không phải là điều gì bí ẩn vì ai cũng biết Kinh Thánh nói Elijah phải đến trước, và Đấng Messiah phải chịu đau khổ và bị loại trừ. Người giải thích các phép lạ làm cho người mù được thấy, người què được đi như là sự ứng nghiệm lời của các Tiên tri trong Cựu Ước (Mt 11:5, Lc 7:22). Lúc biết mình sắp ra đi, Đức Giêsu đã lập bí tích Thánh Thể như lời giao ước mới mà ngôn sứ Jeremiah đã báo trước. Người cẩn thận nhắc nhở kẻ phong hủi mới được chửa lành phải đi báo cho các kỳ mục biết như luật Môisen buộc phải làm (Mc 1:44).

Cuối cùng, Đức Giêsu diễn giải Cựu Ước từ kinh nghiệm của Người về “Abba” và “Nước Trời”. Ngài khẳng định rằng, với sự hiện diện của Người thì lề luật được thay thế bằng tình yêu của Thiên Chúa. Ai tin vào luật Môisen mà không tin vào Đức Giêsu là đã sai lầm rồi vì Môisen nói về Người Ga 5:46). Chúng ta hiểu sai lề luật nếu không tuân theo thần khí ngôn sứ đã đến để dạy cho chúng ta (Ga 8:17). Người dùng cả những sự kiện tích cực lẫn tiêu cực khi nói về vai trò “ứng nghiệm” của mình. Lối diễn giải dựa trên lòng nhân từ và tha thứ của Chúa Cha hay bị các Kinh Sư chống đối. Nguyên tắc chú giải Kinh Thánh của Đức Giêsu có thể được tóm tắc trong câu: “Bất cứ kinh sư nào đã được học hỏi từ Nước Trời, thì cũng giống như chủ nhà kia lấy ra từ trong kho của mình cả cái mới lẫn cái cũ” (Mt 13:52).

Thánh Phaolô chú giải Cựu Ước

Thánh Phaolô rất quen thuộc với cả truyền thống Torah cùng với các bản văn ghi lại lời giảng của Đức Giêsu. Cả Phaolô và Đức Giêsu đều chống lại não trạng duy lề luật của nhóm Pharisêu. Phaolô quy tinh thần của lề luật vào một nguyên tắc chung: “Ngươi hãy yêu thương tha nhân như chính mình.” (Gal 5:14, Rom 13:9). Nhưng vì sống sau Đức Kitô gần 20 năm, những kinh nghiệm của Phaolô về Giáo Hội, ơn cứu độ, bí tich và đời sống đức tin của cá Kitô hữu đã để lại dấu ấn trên cách ngài giải thích Cựu Ước. Phaolô dùng phương pháp ẩn dụ để nhân cách hóa và luân lý hóa Cựu Ước, và dùng Cựu Ước để làm sáng tỏ ý nghĩa sứ mệnh của Đức Kitô và giáo hội. Các trình thuật về sự sa ngã của Adam, cuộc lưu đày ở Ai-cập, biến cố xuất hành, thanh tẩy ở sa mạc, vào đất hứa, v.v., đều là hình ảnh về những gì đã thực sự xảy ra trong cuộc đời của Đức Kitô và Giáo Hội. Đức Giêsu được xem như là “Adam thứ hai”, các tổ phụ chịu “phép rửa” bằng đám mây và biển đỏ qua biến cố Xuất Hành, và được “nuôi dưỡng” bằng thức ăn và uống thiêng liêng trong sa mạc (1 Cor 10:2).

Trong khi Đức Giêsu chấp nhận thập giá như là con đường đưa đến ơn cứu rỗi cho con người thì Phaolô nhấn mạnh vào sự ô nhục của Thập giá để vạch trần sự khao khát vô vọng của sự tìm kiếm sự khôn ngoan trong triết lý Hy-La. Cách Phaolô giải thích tình trạng nước đôi của lề luật cho thấy tài hùng biện và khả năng trực giác của ngài. Một mặt, vì lề luật đến từ Thiên Chúa nên là công chính và thiện hảo (Rm 7:12). Nhưng mặt khác, “tình yêu là sự ứng nghiệm của lề luật” (Rm 13:10), do đó ý nghĩa của Cựu Ước là không phải trong chính nó mà trong tương quan với Đấng sẽ đến (Mt 12:38, Lc 11:29). Phaolô đã kết nối chú giải “ứng nghiệm” với biện chứng “tiên trưng” khi cho rằng những phúng dụ và lời nói bóng trong Cựu Ước là hình ảnh cho thực tại thiêng liêng hay tội lỗi trong Giáo Hội. Ví dụ, Đức Giêsu phục hồi những gì Adam đã đánh mất (1 Cor 15), hai đứa con trai của Abraham, một sinh ra bởi thân xác tội lỗi và một sinh ra bởi lời hứa của Thiên Chúa, là hình bóng của hai lời giao ước ở Sinai và ở Jerusalem (Gal 4:22-26). Trong các thư mục vụ, ngài thường dùng kinh nghiệm cá nhân như mô phạm để khuyên bảo anh em sống và hiểu Lời Chúa (2 Thess 1:7, 1 Cor 10:6).

Phaolô có khuynh hướng dùng các trình thuật lịch sử của Cựu Ước như là phúng dụ (allegory), chứa đựng các mức độ ý nghĩa tiềm ẩn khác nhau về biến cố Kitô. Từ ngữ thì không quan trọng cho bằng ý nghĩa trung tâm: cả Kinh Thánh phải được hiểu qua nhãn quan của sự chết, sống lại và sứ mệnh của Đức Kitô. Người là trung tâm chú giải mới về lịch sử cứu độ: từ Israel cũ đến Israel mới là Giáo Hội, từ Adam thứ nhất đến Adam thứ hai là Đức Kitô. Khi xem sự kiện lịch sử như là phúng dụ, Kitô hữu có thể hiểu rõ hơn về hành trình đức tin và tội lỗi của mình. Sự bất tuân của Adam mang tội lỗi và sự chết vào thế gian (Rom 5:12), đức tin của Abraham công chính hóa ông trước mặt Thiên Chúa (Gal 3:6), nhưng “biến cố Kitô” mặc khải cho chúng ta sợi dây liên kết phổ quát của toàn thể nhân loại: “Như trong Adam tất cả phải chết, thì trong Đức Kitô tất cả sẽ được cho sống lại” (1 Cor 15:22).

Ngoài phúng dụ, Phaolô còn dùng biểu tượng (symbol) để khai thác trí tưởng tượng khi cần kết nối niềm tin Kitô giáo với các biến cố Cựu Ước. Ví dụ, Đức Kitô chính là hiện thân của Đức Khôn Ngoan và là đầu của Giáo Hội (1Cor 10). Thức ăn và nước uống thiêng liêng, tảng đá gốc thiêng liêng của các Tổ Phụ Do thái là biểu tượng cho bánh từ trời, nước hằng sống, và đá tảng thật vốn là Đức Kitô. Khăn che mặt của Môisen khi tiếp cận với Đức Chúa là hình ảnh của cách người Do Thái hiểu Cựu Ước. Nhưng màn che đó đã được tháo bỏ qua biến cố Kitô khi Thần Khí Thiên Chúa giải thích Kinh Thánh trực tiếp nơi con tim của các Kitô hữu. Đó là ý nghĩa của sự tự do khi lề luật được công chính hóa bằng đức tin và ân sủng (2 Cor 3:14). Não trạng duy lề luật làm cho ta bị mù và không nhận ra những mầu nhiệm bí ẩn hay hình ảnh Thiên Chúa ẩn dấu trong Cựu Ước. Bối cảnh gốc của Cựu Ước thì không quan trọng cho bằng ý nghĩa nó mang lại cho chủ đề Kitô học. Vì lẽ, theo Plaolô, “bất cứ điều gì đã được viết xuống trước đây thì được viết để dạy dổ chúng ta… Niềm hy vọng đây chính là Đức Kitô phục sinh và quang lâm” (Col 1:15). Sau khi trở lại, động lực bền vững trong cách Phaolô chú giải Kinh Thánh chính là kinh nghiệm cá nhân: “không phải tôi sống mà Đức Kitô sống trong tôi” (Gal 2:20).

Tân Ước chú giải Cựu Ước

Các tác giả của Tin Mừng dùng cả ẩn dụ và biểu tượng, nhưng nhấn mạnh hơn về tính tiên trưng (typology) của Cựu Ước. Phương pháp tiên trưng đi xa hơn “ứng nghiệm” khi nó giải thích rằng Cựu Ước chứa đựng những lời tiên tri, cho thấy trước những gì sẽ xảy ra nơi Đức Kitô. Các biến cố trong cuộc đời của Đức Giêsu đã được Cựu Ước biết trước, nhưng chỉ được tiên báo bằng ngôn ngữ hình tượng và ngôn sứ. Chân lý chứa đựng trong Cựu Ước đã được Chúa Giêsu hoàn thực. Thánh Linh sẽ chọn thời gian và không gian để tác động lên sự hiểu biết của người nghe, giúp họ nhận thức các chân lý này. Phương pháp tiên trưng giả định một sự hài hòa giữa biến cố Cựu Ước trong quá khứ và thực tại đang được trình thuật lại trong Tân Ước. Chỉ qua phương pháp này thì các sách Ngôn Sứ mới được hiểu đúng.

Tuy nhiên, sự hài hòa này nhiều khi được tạo nên cách tùy tiện với mục tiêu minh chứng rằng Cựu Ước đã biết trước về sứ mệnh và vai trò của Đức Kitô. Phương pháp tiên trưng dựa trên kỷ năng tưởng tượng và đồng cảm hơn là lôgic. Sự tương đồng giữa các biến cố này tùy thuộc vào khả năng người chú giải nhận ra ý nghĩa thiêng liêng và luân lý của bản văn, nhưng bối cảnh lịch sử gốc của nó thì thường bị lướt qua. Một ví dụ cụ thể là “Thư Do Thái” vốn được viết để an ủi và củng cố đức tin của những người bị tổn hại sau khi trở thành Kitô hữu và tự phân vân có phải tại vì Đức Kitô mà cuộc sống của họ đã trở nên chao đảo. Bức thư Do Thái giải thích rằng tất cả lễ nghi linh đình tại đền thờ Giêrusalem chỉ là “hình bóng” của một sự kiện khác vĩ đại hơn nhiều. Ơn thứ tha tội lỗi, lòng tôn thờ Thiên Chúa trong thần khí, niềm khác vọng của toàn bộ Cựu Ước, phải do vị tư tế chân chính của toàn thể nhân loại là Đức Kitô, Con Thiên Chúa, thực hiện thì mới được hoàn tất. Hình ảnh tư tế “Melkizedek”, vốn cao trọng hơn hàng tư tế của phái Levi, được dùng để minh họa cho vai trò tư tế vĩnh cửu của Đức Kitô. Đây là cách lý luận từ hình bóng đến thực tại, từ sự kiện tạm bợ đến vĩnh cửu, và từ tính mỏng giòn yếu đuối của con người đến tính siêu việt và hoàn hảo của Thiên Chúa, vốn phản ảnh tri thức luận nhị nguyên “thực tại/ảo ảnh” của Platô.

Các Tin Mừng nhất lãm dùng cả hai phương pháp tiên trưng và ứng nghiệm. Tin Mừng Matthew xem Đức Giêsu như là ứng nghiệm của lề luật trong sự hoàn tất của giáo huấn luân lý: “một chấm một phết trong Lề luật cũng sẽ không qua đi cho đến khi mọi sự được hoàn thành” (Mt 5:18). Mọi biến cố trong cuộc đời Đức Giêsu: ra đời tại Bethlehem, được các đạo sĩ ngoại giáo biết là Vua dân Do Thái, chạy trốn sự bách hại của Hêrôđê, trở về từ Ai-cập, bài giảng trên núi, biến hình, v.v., tất cả đều được hổ trợ với bằng chứng trích dẫn từ các sách Xuất hành, Samuel, Hosea, Jeremiah. Việc trích dẫn chứng cớ lịch sử thì không hoàn toàn chính xác, nhưng có quá nhiều sự trùng hợp giữa Cựu Ước và cuộc đời của Đức Kitô làm cho chúng ta thấy rõ mục đích của tác giả là minh chứng Đức Kitô như Môisen mới, mang đến lề luật mới, và cho thấy lời tiên tri đã được ứng nghiệm.

Trong khi Tin Mừng Matthew giải thích lời tiên tri được ứng nghiệm nơi Đức Kitô, thì Tin Mừng Luca cho thấy sự ứng nghiệm đó xảy ra cho dân ngoại. Luca nhắm vào sứ mệnh và ơn gọi của dân Chúa được tuyển chọn. Ngay từ đầu, các Bài Ca “Magnificat” và “Benedictus” cho chúng ta một cái nhìn về lịch sử ân sủng Thiên Chúa đã ban tặng cho dân Israel. Cuối bản Tin Mừng, Đức Kitô phục sinh cũng đã hai lần trách móc các môn đệ về sự chậm hiểu của họ về Kinh Thánh. Người mở lòng trí và giải thích cho họ biết những gì sách Ngũ Kinh, các Ngôn Sứ và Thánh Vịnh nói về Người (Lc24,13-35). Lưu tâm của Luca là sự đóng lại màn lịch sử cũ và mở ra một sân khấu mới với sứ mệnh mới cho dân Israel mới, đó chính là cộng đồng các Kitô hữu, hay giáo hội. Nói chung, cả hai Tin Mừng Matthew và Luca đều phải tìm cách giải quyết mối tương quan giữa “Bình cũ/Rượu Mới”, tiêu biểu cho mặc khải Cựu Ước và sứ vụ của Đức Kitô.

Tin Mừng Gioan tuy không trực tiếp trích dẫn Cựu Ước, nhưng vẫn dùng các chủ đề của Cựu Ước làm khung cho các bài giảng thuyết để nói lên Thần Khí Thiên Chúa đang đồng hành với Đức Kitô. Gioan dùng phạm trù “Logos” để tạo nhịp cầu giữa “biến cố Kitô” với nền văn hóa Hy-La và các Tông Phụ sau 100AD. Cựu Ước được dùng như là hậu cảnh “bóng tối” mà ánh sáng Logos đã chiếu soi vào, xuyên qua các ngôn sứ và những ai đã từ chối ánh sáng đó. Những ai đón nhận thì được ơn làm con Thiên Chúa và được hiệp thông trong mầu nhiệm của sự sống với Thiên Chúa. Tính siêu việt của Đức Kitô được tiền tri như là hình bóng của Thiên Chúa qua Cựu Ước (Isaia 6:5), vì không ai có thể thấy Thiên Chúa, trừ khi được con Thiên Chúa mặc khải cho. Ở đây có sự so sánh giữa mặc khải của Hòm Bia Thánh trong Cựu Ước với mặc khải siêu việt và hoàn hảo hơn, chính là thân thể của Đức Kitô. “Lề luật thì được ban cho Môisen, nhưng ân sủng và chân lý thì qua Đức Giêsu Kitô” (Ga 1:17).

Các Thư Mục Vụ của Timothy và Titus mang ảnh hưởng giáo hội học và Kitô học của Phaolô. Lề luật là tốt nhưng phải được chú giải theo Thần Khí Đức Kitô, vốn được ân ban để xây dựng cộng đồng dân Chúa. Phaolô dùng sự hiểu biết về Cựu Ước và kinh nghiệm đức tin trưởng thành giữa lòng cộng đoàn Kitô để khuyên bảo Timothy: “Tất cả sách thánh đều do Thiên Chúa linh ứng và có ích cho việc giảng dạy, biện bác, sửa dạy, giáo dục để trở nên công chính” (2 Tim 3:18). Sau hết, Tân Ước cho biết Đức Giêsu còn nhiều điều muốn nói về Kinh Thánh nhưng Thần Khí Thiên Chúa sẽ là người dạy và nhắc nhở các môn đệ về những gì Đức Giêsu đã nói và dẫn dưa họ đến chân lý. Ý nghĩa của Cựu Ước sẽ được mở rộng và thông diễn bằng chính đời sống và lời chứng tá của các Kitô hữu.

CÁC TÔNG PHỤ VÀ VẤN ĐỀ “BẦU CŨ & RƯỢU MỚI”

“Biến cố Kitô” đã để lại những chấn động trên cuộc sống của các môn đệ và các thế hệ Kitô hữu sau đó. Sách Tông Đồ Công Vụ ghi lại sự hăng say, nóng lòng muốn lan truyền cho thế giới về một Thần Khí Mới đang phát sinh nơi cộng đồng những người mới chịu Phép Rửa. Tuy nhiên, sự hăng say này đã mang lại nhiều phản ảnh tiêu cực từ các lãnh đạo Do Thái giáo. Sau khi Giêrusalem bị quân đội Rôma phá hủy, người Do Thái trở nên thù nghịch hơn với các Kitô hữu và đã khai trừ họ ra khỏi hội đường. Nhưng các Kitô hữu vẫn luôn kiên trì, xem lời hứa cứu rỗi của dân Do Thái cũng là lời hứa cho chính mình, và muốn giữ sự liên tục giữa Kinh Thánh và “biến cố Kitô”, vì cả hai cùng đến từ một Thiên Chúa. Có những nhóm Ngộ giáo (Gnostics) quá khích, muốn hoàn toàn loại bỏ “bầu cũ” một khi đã có “rượu mới”, trích xuất các Thư của Phaolô để hỗ trợ cho việc họ lên án linh đạo lề luật Cựu Ước. Đó là chưa kể những cuộc bắt đạo đẫm máu mà Giáo Hội sẽ gánh chịu. Vì thế, sẽ cần thời gian và ơn soi sáng của Thần Khí để tạo một hợp đề “công giáo” thích ứng cho bối cảnh này. Các Tông Phụ tiên phong như Inhaxiô và Barnaba, Marcion và Justinô, cũng như Plôtêmê và Valentinô là những vị tiên phong, nhưng Irênê mới là người đã xây dựng nền tảng linh ứng của Tân Ước với truyền thống của Giáo Hội. Tính vẹn toàn của mặc khải này sẽ là nền tảng cho sự hình thành của thư quy “Tân Ước”.

Các Tông Phụ giải quyết vấn đề vẹn toàn của Lời Chúa

Thời các Tông Phụ, khái niệm “Tân Ước” vẫn còn linh động. Đối với những Kitô hữu gốc Do Thái, “biến cố Kitô” là sự ứng nghiệm của lề luật và ngôn sứ. Nhưng các Kitô hữu gốc Hy Lạp không mang cùng tâm thức lịch sử về “Vượt Qua”, “Xuất Hành”, “Sa Mạc” hay “Đất Hứa” như người Do Thái, cho nên khái niệm “ứng nghiệm” của Cựu Ước không đóng góp gì cho đức tin của họ. Việc tuân giữ lề luật cũng gây tranh cãi giữa các cộng đoàn truyền giáo. Một bên cho rằng: “Đức Giêsu đến để hoàn thiện lề luật. Không một dấu, một vết của lề luật có thể bị bỏ qua” (Mt 5,18). Còn bên kia thì quả quyết: “Đức Giêsu đến để giải thoát chúng ta khỏi lề luật, do đó chúng ta được tự do sống theo Thần Khí và ân sủng” (2 Cr 3,4-6). Giữa hai thái cực này còn có nhóm Ngộ giáo với linh đạo cuồng tín vốn không phù hợp với tính “công giáo” của đạo mới. Với tác phẩm “Tông Đồ Công Vụ”, cộng đồng Kitô hữu bắt đầu gom lại các thư của Phaolô và các Tông Đồ để truyền nhau đọc trong các buổi phụng vụ. Tuy cùng chia sẻ chung một niềm tin rằng “mặc khải Kitô” thì siêu việt hơn mặc khải của Cựu Ước, nhưng vẫn còn đó sự khác biệt về cách kết nối “bầu cũ” với “rượu mới”. Chúng ta sẽ sơ lược qua các quan điểm của một số tông phụ trước khi đi vào nguyên tắc linh ứng dựa trên thẩm quyền của Irênê

Inhaxiô, Barnabas và Marcion

Inhaxiô (c 108) trên đường bị truy điệu về Rôma để chịu án tử hình đã viết bảy lá thư mục vụ khuyên bảo các cộng đoàn Kitô hữu giữ vững đức tin.[1] Qua đó, ngài đã để lại một nguyên tắc quan trọng về việc chú giải Lời Chúa. Một số Kitô hữu tại Philadelphia cho rằng, nếu không tìm thấy “bản văn” Kinh Thánh trong các “Thư” thì chúng không thể thuộc về Tin Mừng. Phản hồi lại thái độ quá lệ thuộc vào Cựu Ước này, Inhaxiô giải thích rằng “Bản Văn” được mặc khải chính là Đức Giêsu Kitô, công cuộc cứu độ và đức tin phát xuất từ Người. Vì Kinh Thánh được viết về Đức Kitô, nên ý nghĩa thư quy phải là hiện thân và là sứ vụ Nước Trời của Người. Như thế, Inhaxiô đã giới thiệu một nguyên tắc linh ứng dựa trên quan điểm Kitô luận.

Nguyên tắc Kitô luận cũng được Barnabas(70-132)[2] dùng để biện phân tính chân thực của “Lời Chúa”, nhưng đã đưa đến kết luận hơi thái quá. Barnabas cho rằng, vì người Do Thái đã hiểu sai những hình bóng về lịch sử ơn cứu độ; do đó, không có lý do gì mà Kitô giáo cần phải viện đến lời giao ước cũ, để giải thích cho ý nghĩa về sự trọn vẹn hay hoàn tất của lời giao ước mới, chính là Đức Kitô. Barnabas muốn cắt đứt mối liên kết giữa hai lời giao ước và cách dùng lịch sử Cựu Ước để minh họa cho mặc khải Kitô giáo.

Marcion (85-160) thuộc phái Ngộ giáo, nhấn mạnh tính đối nghịch giữa lề luật và ân sủng thường được thấy trong các thư mục vụ của Phaolô.[3] Dựa trên quan điểm nhị nguyên này, Marcion phân biệt Thiên Chúa Công Chính (Lề luật và Do thái giáo) với Thiên Chúa Thiện Hảo (Cha của Đức Kitô). Sự mới mẻ của Tin Mừng đã loại bỏ tính thô lỗ hay cục mịch của Cựu Ước. Những nhân vật như Cain, dân thành Sôđom, dân Ai Cập và những kẻ gian tà khác đều đến với Đức Kitô để mong được cứu rỗi; thế nhưng, vì dựa trên sự công chính, họ đã bị loại trừ. Chỉ có ân sủng và đức tin mới cứu độ. Marcion dùng thuyết ân sủng của Phaolô để cắt đứt mối tương quan giữa hai lời giao ước vốn xuất phát từ cùng một Thiên Chúa.

Justinô, Ptôlêmê và Valentinô

Justinô (100-162) là nhà biện giáo đưa đã tạo nền tảng cho quan điểm mặc khải của Giáo Hội sơ khai. Ngài phản đối sự tách biệt giữa Cựu Ước và Tân Ước và cho rằng Thiên Chúa của Cựu Ước cũng là Thiên Chúa của Tân Ước, và chính Người cũng (được mạc khải) là Cha của Đức Kitô. Không có Cựu Ước thì cũng sẽ không có Tân Ước. Tất cả các ngôn sứ trong Cựu Ước lẫn triết gia Hy Lạp đều là chứng nhân cho Thiên Chúa và thuộc cùng một gia tộc Kitô hữu, nhưng với cấp độ mặc khải khác nhau. Có một mối tương quan giữa Lề luật và linh đạo Kitô giáo, cũng như giữa các ngôn sứ và sự mong chờ vào sự hoàn tất của lời tiên tri. Các tổ phụ Do Thái vẫn được cứu rỗi, nhưng không cần phải cắt bì, giữ ngày Sabat hay luật lệ về ăn uống và của lễ hiến tế; bởi vì, hai biến cố cuộc khổ nạn và sự (phục sinh) vinh quang của Đấng Mêsia đã được Cựu Ước tiên báo. Justinô đã ra công bảo tồn Cựu Ước cho Kitô giáo, nhưng cách dùng phương pháp tiên trưng của Justinô hơi lỏng lẻo và khó minh chứng các lời tố cáo rằng một số bản văn nói đến mặc khải Kitô giáo trong Cựu Ước đã bị người Do Thái cắt bỏ.

Một cách liên kết lịch sử khác đến từ Ptôlêmê (100-170)[4] thuộc phái Ngộ giáo. Ptôlêmê cho rằng mặc khải Cựu Ước (lề luật) thì không hoàn toàn do Thiên Chúa mà một số đến từ con người vì nhu cầu đặc biệt của dân Do Thái. Còn “luật tình yêu” trong Tân Ước thì do chính Đức Kitô, Con Thiên Chúa ban cho chúng ta. Luật Thiên Chúa thì hoàn hảo, nhưng cách giải thích chúng thì bất toàn, cần phải hoàn thiện bởi Đấng Cứu Độ, Người đã cải biến thực tại khả giác thành những thực tại thiêng liêng và vô hình. Lề luật Do Thái cần được mặc lấy ý nghĩa thiêng liêng, như thánh Phaolô đã tuyên bố: “Đức Kitô, cuộc vượt qua của chúng ta đã hiến tế cho chúng ta” (1 Cr 5,7). Với lý luận này, việc chú giải Kinh Thánh không phải cắt bỏ truyền thống, nhưng cần biện phân các thực tại thiêng liêng và vô hình tiềm tàng trong đó.

Mặt khác, Valentinô (100-180)) đại diện cho giới trung lưu có hiểu biết nhiều về triết lý Hy Lạp[5]. Ông có thái độ cứng rắn hơn về mối tương quan giữa Cựu Ước và Tân Ước khi trích dẫn Gioan 10,8: “Mọi kẻ đến trước tôi đều là trộm cướp.” Cựu Ước chỉ là một cuốn sách tầm thường với luật lệ bất cập, mâu thuẫn và đôi khi bất nhân. Thiên Chúa của Do Thái giáo không được giới triết gia Hy Lạp tôn trọng, nhưng thời đó Giáo Hội chưa có cách đáp ứng thích đáng cho vấn đề này. Phaolô và tác giả của “Thư Do Thái” chỉ thỏa mãn nhu cầu cập nhật đức tin cho các tín hữu nội bộ; nhưng cấp bách hơn là nhu cầu cần lý giải đức tin cho những kẻ bên ngoài, nếu Giáo Hội muốn tiếp tục sứ mệnh truyền giáo của mình.

Irênê (130–202): vai trò của thánh truyền và thẩm quyền Giáo hội

Irênê, Giám mục người Hy Lạp ở Lyon, đưa ra “nguyên tắc tông truyền”[6] khi giải thích đức tin Kitô giáo cho dân ngoại và vạch trần các sai lầm của Valentinô và Marcion. Trong khi các nhóm Ngộ giáo phân biệt tính thứ cấp của Thiên Chúa Cựu Ước so với Thiên Chúa của Tân Ước, thì Irênê lý luận rằng chỉ có một Thiên Chúa vốn đã mặc khải qua cả hai lời giao ước. Lề luật trong Cựu Ước là thật và đúng cho thời đại của nó, nhưng Thiên Chúa trong Tân Ước đã hài lòng với cách mặc khải mới qua sự hiện diện của Con Thiên Chúa, Đức Kitô. Lề luật hay lời ngôn sứ tự nó không chứa đựng lời giải thích. Nhưng với “biến cố Kitô”, lề luật và lời ngôn sứ được xem như là những báu vật chôn cất từ lâu, nay được khám phá qua Thánh Giá của Đức Kitô và đã được giải thích sau biến cố Phục sinh (x. Lc 24,27). Từ nhãn quan lịch sử tính của mặc khải, Irênê đã tìm một hợp đề mới cho cả hai lời giao ước.

Ngoài ra, Irênê cón vạch ra khuynh hướng “lấy râu ông này gắn cằm bà nọ” khi phái Ngộ giáo ráp nối hình ảnh trong truyện thần thoại Hy Lạp với hình ảnh về Chúa Cha, Thánh Linh và Đấng Nhập Thể. Irênê lên án cách pha trộn những giai thoại Eliad và Odyssey vào Kinh Thánh là tạo nên những đám hỏa mù, che dấu linh đạo mờ ám và bí ẩn của phái Ngộ giáo, và là một sự lừa đối với những kẻ có kiến thức về Homer. Lối chú giải ẩn dụ của Irênê căn cứ trên “quy phạm của đức tin”. Sứ mệnh loan báo Tin Mừng được Thiên Chúa giao phó cho Giáo Hội, do đó chân lý chỉ được tìm thấy nơi Giáo Hội. Triết học có thể cung cấp nhiều cách giải thích đáng tin cậy và cũng đáng hoài nghi; thế nhưng, chân lý thì luôn ở trong sự quan phòng của Thiên Chúa. Lời giáo huấn của các Tông Đồ, do tính tông truyền của các vị giám mục kế vị, là sự hiểu biết chân chính nhất. Muốn tìm ý nghĩa chân thực của Kinh Thánh, thì hãy đọc Kinh Thánh với các vị giám quản vốn được giáo huấn theo qui luật của đức tin Công giáo.

Như thế, Irênê đã làm nổi bật yếu tố thẩm quyền của truyền thống trong việc chú giải Kinh Thánh. Giáo Hội không tạo nên Tin Mừng, nhưng qua sự linh ứng của Thần Khí, Giáo Hội đã mang Tin Mừng vào sự tồn tại của nó như một bản văn. Tin Mừng là cuốn sách mà Giáo Hội đã chọn giữa các trình thuật về Đấng Sáng Lập và nguồn gốc của chính mình. Do đó, không thể tách biệt thẩm quyền của Giáo Hội ra khỏi việc chú giải Kinh Thánh. Irênê là thần học gia đầu tiên bảo vệ tính linh ứng của Tân Ước trên nền tảng thánh truyền. Bản văn Kinh Thánh không thể tự chú giải chính mình, nhưng chúng ta đọc và giải thích Kinh Thánh cho phù hợp với nhu cầu đức tin của Giáo hội. Chú giải là mang mạc khải Kinh Thánh vào hiện tại bằng ngôn ngữ của mình, và đó chính là sự thể hiện và phát huy tiệm tiến của truyền thống, vốn được tích tụ từ những bài học khôn ngoan qua hành trình sống Lời Chúa. Là một lịch sử phê phán, truyền thống Giáo hội có thẩm quyền trên cách chúng ta chú giải và sống mầu nhiệm đang mạc khải cho chúng ta.

GIÁO HỘI SƠ KHAI CHÚ GIẢI KINH THÁNH CHO DÂN NGOẠI

Ở thế kỷ thứ III, tuy thư quy “Tân Ước” đã được hình thành nhưng việc chú giải Kinh Thánh còn chưa thống nhất trong bối cảnh truyền giáo. Có những giáo hội địa phương xem Tân Ước như một bản văn chứa đầy ẩn dụ, vốn có thể được làm sáng tỏ qua ý nghĩa biểu tượng hay luân lý, như cách triết gia Hy Lạp chú giải các chuyện thần thoại, và xem nhẹ các tình tiết lịch sử quan trọng trong sứ mạng của Đức Giêsu. Có nơi khác thì xem Tân Ước như một sân khấu lịch sử, với kịch bản gồm các chứng cứ được tiên báo từ Cựu Ước để củng cố cho niềm tin về Thần Khí Thiên Chúa đang hoạt động giữa lòng dân ngoại. Phương pháp này có nguy cơ áp đặt ý nghĩa hiện tại và gán lên các bản văn quá khứ những “nhãn hiệu” không phù hợp với bối cảnh gốc của chúng. Vì thế, cần phải có thẩm quyền để bảo đảm cho tính tông truyền và chính thống của Kinh Thánh và tránh các thái độ quá khích của Ngộ giáo thuyết. Theo thời gian, các trường phái chú giải đặc thù được thành hình như Alexandria (ẩn dụ), Antiôkia (tiên trưng) và các Giáo phụ (thánh truyền).

Trường Phái Alexandria: Phương Pháp Ẩn Dụ

Trường phái Alexandria gồm có những nhà trí thức quen thuộc với văn hóa Ai cập và triết học Hy Lạp, vốn xem các ý nghĩa nguyên tự, thiêng liêng, và thần bí như là ba phần của con người, thân xác, linh hồn và thần khí. Đối với họ, vật chất là nguồn gốc của sự dữ và biến cố lịch sử là ẩn dụ về thực tại vĩnh cửu. Phương pháp chú giải ẩn dụ giúp giải thích những đoạn văn khó hiểu, nhưng lịch sử và hành động của Thiên Chúa thường bị lướt qua. Bối cảnh văn hóa - xã hội được xem như vỏ bọc không cần thiết, một khi ý nghĩa của bản văn được nắm bắt.

Philô (20 TCN–40 CN), một triết gia Do Thái, là người đầu tiên dựa trên tu từ học của phái Khắc Kỷ (Stoic) để chú giải các biểu tượng về sự vật hoặc về trách nhiệm luân lý của con người. Các nhân vật trong biến cố “sa ngã” là ẩn dụ về nhục dục (Satan), về thân xác (Evà), và về lý trí (Adam). Phương pháp ẩn dụ giải thích những sự kiện có vẻ mâu thuẫn với kinh nghiệm thường ngày như “tên” của những cây trong vườn Địa Đàng, cây “Sự Sống”, cây “Biết Lành Biết Dữ”, cũng như sự mâu thuẩn khi nói về “ngày đầu” của tạo dựng trong lúc mặt trời hay mặt trăng chưa được tạo nên. Philô để lý luận rằng, lời Kinh Thánh được Thiên Chúa mặc khải cho Do Thái giáo, nhưng nếu được chú giải cách chính chắn thì không khác gì Người đang mạc khải cho dân Hy Lạp qua ẩn dụ. Cách chú giải ẩn dụ chạm đến thực tại thánh thiêng và phổ quát đang ẩn giấu bên dưới ngôn ngữ của Kinh Thánh nhưng cũng được nhóm Ngộ giáo đón nhận rất tích cực. Họ loại bỏ Thiên Chúa của Cựu Ước, và xem việc tạo dựng và lịch sử Do Thái là một sai lầm trầm trọng. Các nhóm Ngộ giáo này tách Đức Giêsu ra khỏi Giáo Hội, và cho rằng con người chìm đắm trong bóng tối tội lỗi và chỉ được cứu rỗi nhờ tri thức bí nhiệm đến từ các tia sáng thần linh.

Thứ đến, Clementê thành Alexandria (150–215) là người đưa phương pháp ẩn dụ của Philô vào Kitô giáo. Clementê cho rằng, tất cả Kinh Thánh được viết bằng ngôn ngữ biểu tượng, ký hiệu và hình ảnh bí nhiệm để truyền tải ý nghĩa, không khác gì cách Môsê, Platô, dân Hy Lạp và Ai Cập đã làm. Mọi ý nghĩa của Kinh Thánh đều có thể được khai triển qua nhiều mức độ như: lịch sử, tín lý, ngôn sứ và tiên trưng, triết lý về vũ trụ và tâm linh, cuối cùng là thần bí. Những gì Cựu Ước nói đến Logos, thì cuối cùng đã được ánh sáng Đức Kitô mặc khải trọn vẹn. Một khi đón nhận ánh sáng đó, người tín hữu sẽ hiểu biết thật sự về chân lý cao siêu của Kitô giáo. Đây cũng là một hình thức của phái Ngộ giáo. Tuy nhiên, Clementê không tách mình ra khỏi Giáo Hội mà vẫn duy trì tính hiệp nhất của mặc khải giữa hai lời giao ước. Clementê đã mở rộng tầm nhìn của phương pháp ẩn dụ để quan sát các tôn giáo và văn hóa khác, cũng như để khai triển nền tảng biểu tượng cho Lời Chúa. Thế nhưng, Clementê không phải là một thần học gia đủ khả năng để khai triển các tín điều. Sứ mệnh đó dành cho Origen.

Origen (185–253) mở trường dạy thần học tại Alexandria vả đã dùng phương pháp chú giải ẩn dụ trong bộ thần học tín lý Các Nguyên Lý (De Principiis). Ông chứng minh tính siêu nhiên của Giáo Hội dựa trên sự kiện Kitô giáo vẫn tiếp tục tồn tại, đúng như lời Đức Kitô đã tiên báo. Hơn nữa, biến cố Kitô đã soi sáng ý nghĩa lời các ngôn sứ và tính thiêng liêng của luật Môsê. Việc ứng nghiệm các sấm ngôn chính là bằng chứng cho tính linh ứng của nó. Kinh Thánh mặc khải cho chúng ta các “chân lý tri thức”, chứ không phải việc làm của Thiên Chúa trong lịch sử. Lối chú giải theo nghĩa văn tự có thể làm cho chân lý Kinh Thánh bị che lấp; ví dụ: Thiên Chúa rảo bộ trong vườn Địa Đàng, trồng một vườn cây, hay Cain đi ra khỏi mặt của Thiên Chúa. Các mâu thuẫn này cho thấy chân lý của Kinh Thánh không hệ tại trong tính vật chất của chữ viết. Tuy không phải mọi nghĩa văn tự của Kinh Thánh đều là hợp lý, nhưng tất cả ý nghĩa của Kinh Thánh đều mang nghĩa thiêng liêng. Như thế, muốn chú giải các mầu nhiệm chứa đựng trong ngôn ngữ biểu tượng của Kinh Thánh thì cần phải có ân sủng siêu nhiên. Lối chú giải ẩn dụ giúp cho đức tin khỏi rơi vào tình trạng phải chấp nhận tất cả chi tiết của Kinh Thánh theo nghĩa văn tự, và giải thoát việc chú giải khỏi những giới hạn cục bộ của “ứng nghiệm”. Qua cách thiết lập nền tảng chung giữa việc chú giải Kinh Thánh và triết học Hy Lạp, Origen đã xây dựng nền tảng lý tính cho thần học Kitô giáo.

Trường Phái Antiôkia: Phương Pháp Tiên Trưng

Trường phái Antiôkia nhấn mạnh đến các biến cố lịch sử và lời ngôn sứ, nhưng không phải để chứng minh tính “ứng nghiệm” của bản văn mà để giải thích cho ý nghĩa của Tân Ước. Họ chú giải Thánh theo cách Phaolô đã dùng thực tại lịch sử của Kinh Thánh để minh họa quan điểm Kitô học của ngài. Nếu Ađam không là Ađam thật sự và không có mặt trong địa đàng, nếu con rắn không phải là con rắn thật, và các sự cố này không có thật, thì sự kiện Ađam bất tuân lời Thiên Chúa, sự chết xâm nhập vào thế gian và ơn cứu độ sẽ trở thành vô nghĩa. Cần phải hiểu đúng là: Khi Tân Ước trích dẫn Cựu Ước như việc Đức Giêsu thốt lên trên Thánh giá (Tv 22,5), hay việc Gioan nhắc lại hình ảnh Môsê giương cao con rắn đồng (Ga 3,14), thì Tân Ước đang nói lên sự tương đồng giữa hai biến cố lịch sử, cho dù cách áp dụng thì khác nhau. Trường phái Antiôkia muốn bảo tồn lịch sử và bối cảnh nguyên thủy của bản văn. Nếu tác giả của Kinh Thánh đã chọn ngôn ngữ, ký hiệu, biểu tượng và dụ ngôn để tạo nên ý nghĩa cho thế giới họ đang sống, thì chúng ta không thể cắt bỏ các thực tại đó, cũng như không thể để mình bị lôi kéo vào thế giới ảo ảnh nào khác.

Trước tiên, Thêođorê (350–428) thành Mopsuestia,[7] khẳng định rằng khi Kinh Thánh mô tả sự kiện lịch sử, thì Kinh Thánh cũng cho thấy nhãn quan linh ứng và nguyên tắc Kitô luận đứng đằng sau. Do đó, bản văn nào mà không chứa đựng các yếu tố ngôn sứ hoặc lịch sử cứu độ (Diễm Ca, Gióp) thì cần phải loại ra khỏi “thư quy”. Quan điểm “lịch sử” này được áp dụng vào tính linh ứng của Tân Ước khi Thêođorê giải thích rằng Tân Ước chưa hoàn toàn khẳng định thần tính của Đức Kitô, vì Thánh Thần chưa ngự xuống các Tông Đồ. Trước biến cố Hiện Xuống, Đức Giêsu chỉ được gọi là “Con Thiên Chúa” như các sứ giả khác của Thiên Chúa. Phản ứng của Tôma, “Lạy Chúa, lạy Chúa tôi” (Ga 20,28) chỉ là một sự ngạc nhiên vì phép lạ xảy ra chứ không phải là một tuyên xưng đức tin. Tuy nhiên, quan điểm “lịch sử” của Thêođorê thì quá hạn hẹp và bị nhóm dị giáo Nestôriô lạm dụng. Điều này dẫn đến sự kiện tác phẩm của ông bị thiêu hủy tại Công Đồng Constantinôp II (553). Tuy nhiên, nguyên tắc lịch sử và linh ứng này đã để lại âm vang trong các cẩm nang chú giải và công trình sáng tác của trường phái Antiôkia.

Kế tiếp, Gioan Kim Khẩu (340–407), Tổng Giám Mục thành Constantinôp, đã giải thích khái niệm “linh ứng” một cách hệ thống hơn. Ông cho rằng không có chìa khóa bí ẩn hay ý nghĩa sâu xa nào, ngoài những sự kiện lịch sử về Đức Kitô vốn đã được báo trước qua các biến cố trong Cựu Ước. Đức Giêsu chính là hiện thân của Đấng Thiên Sai đã được tiên báo trước đây, và cho thấy rõ nhân tính và thần tính đại của Cựu Ước và Tân Ước. Lối chú giải này muốn bảo vệ tính vẹn toán của lịch sử Do Thái, cùng với chiếc áo mới mà Kitô giáo đã mặc lên nó. Gioan Kim Khẩu phân biệt giữa “tên gọi” của chân lý và chân lý tự thân. Một họa sĩ có thể phác họa những đường nét tinh hoa về hình ảnh (tên gọi) của nhà Vua trước khi tô màu vào đó, nhưng, cho khi nhà Vua thật sự xuất hiện, chúng ta sẽ bái phục nhà Vua chứ không phải bái phục bức hình. Một khi chân lý xuất hiện thì “tên gọi” không cần nữa, Như thế, cách Gioan Kim Khẩu kết nối lịch sử tính với phương pháp chú giải tiên trưng đã giới thiệu bản chất “loại suy” của ngôn ngữ Kinh Thánh.

Cuối cùng, Giêrônimô đã mở rộng trường phái Antiôkia qua công trình chuyển dịch và chú giải Kinh Thánh “Vulgata” (Bản Phổ Thông).[8] Lúc đầu, Giêrônimô dùng phương pháp “ẩn dụ” của Origen; nhưng qua cách bình phẩm lịch sử của Apollinariô thành Laođikêa, ngài nhận ra rằng muốn hiểu biết sâu sắc về Kinh Thánh thì cần chú tâm đến những ý nghĩa thiêng liêng dựa trên lịch sử của các bản văn. Ý nghĩa thiêng liêng thì vượt trên ý nghĩa thể lý, nhưng không bao giờ loại trừ nó. Phương pháp bình phẩm này được áp dụng qua các cẩm nang chú giải của Ađrianô [9] và Junilius Africanus[10]. Họ liệt kê các thành ngữ giúp nhận diện hình thức của những bản văn ngôn sứ và lịch sử, cũng như dùng triết học của Aristote để giải thích cho phương pháp tiên trưng. Tuy quan điểm chú giải lịch sử của trường phái Antiôkia còn đơn sơ và thiếu phê phán, nhưng sự nhấn mạnh vào bình phẩm lịch sử đã để lại ảnh hưởng lên thần học Kitô giáo thời Trung Cổ và Kinh Viện.

Các Giáo Phụ: Nguyên Tắc “Tông Truyền”

Sự kiện có những quan điểm quá khích của các nhóm dị giáo đã đưa đến ý thức rằng chú giải Kinh Thánh không chỉ là khai triển các mức độ ý nghĩa của bản văn, mà còn tham dự vào công cuộc bảo vệ tính hiệp nhất và tông truyền của Giáo Hội. Từ đó, vai trò của thẩm quyền trở thành tất yếu trong việc xác định phạm vi của việc chú giải cũng như các phạm trù tín lý cho thần học. Tertulianô, một luật sư xuất thân từ Carthagô ở thể kỷ III,[11] phản đối quyền tham dự các buổi tranh luận về Kinh Thánh của các nhóm dị giáo vì họ đã gây ấn tượng tiêu cực trên các tín hữu, làm cho những kẻ có đức tin đơn sơ và yếu lòng bị hoang mang. Ông cho rằng cần phải thẳng tay trừng trị các nhóm này, vì chúng làm băng hoại đời sống Giáo Hội vốn là nơi mà đức tin chân chính, cách chú giải trung thực, và tính tông truyền của thẩm quyền được tìm thấy. Tertulianô đưa ra trên ba lập luận: (1) Đức Kitô đến rao giảng chân lý để mặc khải về Thiên Chúa; (2) Đức Giêsu trao phó chân lý này cho các Tông Đồ; và (3) Các Tông Đồ đã thiết lập Giáo Hội và truyền lại mặc khải đó. Do đó, Kinh Thánh thuộc về Giáo Hội và các nhóm dị giáo chỉ là kẻ gian gieo hạt giống cỏ xấu vào ruộng lúa của ông chủ và trích dẫn Kinh Thánh để biện minh cho mục đích riêng của họ. Tertulianô lên án Marcion, Valentinô và Apelles đã “chặt trộm cây”, “hái trộm quả”, “chuyển dòng nước” trong vườn của Giáo Hội, nơi mà họ đã không ra sức vun trồng và không có quyền sở hữu. Tertulianô cũng chỉ trích cách Origen dùng triết học vốn là mẹ của mọi tư tưởng dị giáo để chú giải Kinh Thánh.

Ở thế kỷ thứ IV, có hai giáo phụ khác cũng đã lên tiếng bảo vệ yếu tố thẩm quyền. Methodius (311), một Giám Mục ở Olympus,[12] dùng triết lý Platô để bảo đảm cho ý nghĩa thiêng liêng của Kinh Thánh. Methodius cho rằng cần phải khám phá chiều sâu và chiều rộng của “tư duy của Kinh Thánh”, nếu không thì người chú giải rất có thể đang rơi vào tình trạng xây một tháp canh lở dở (Lc 14,28) như trong tư tưởng của các nhóm dị giáo. Vincentê, một Đan sĩ ở Lerinum,[13] giải thích thêm rằng, chỉ có một Tân Ước và được lưu truyền qua Giáo Hội, không thể bị chia cắt ra từng mảng bởi các cách chú giải của phái Ngộ giáo. Kitô giáo tuy có sự phát triển và trưởng thành như một chi thể, nhưng vẫn là một trong sự hiệp nhất của nó. Nếu có sự hoài nghi về chú giải Kinh Thánh, thì hãy xin ý kiến của những bậc khôn ngoan và hữu trách. Thẩm quyền của Giáo Hội đến từ tính phổ quát của mặc khải, mở rộng tầm nhìn đức tin cho tất cả mọi người từ các góc độ nhập thể và cánh chung.

TỪ “SACRA PAGINA” ĐẾN “SACRA DOCTRINA”

Bắt đầu từ thời Trung Cổ, công việc chú giải Kinh Thánh được mang vào các Đan viện, Học Viện và Đại Học, từ đó đã trở nên chuyên nghiệp hơn để đáp ứng nhu cầu của mỗi bối cảnh. Có ba cột mốc trong tiến trình chú giải Kinh Thánh ở giai đoạn này: Augustinô với mục tiêu gia tăng lòng mến Chúa & yêu người, giai đoạn tiền Kinh Viện với mục tiêu gia tăng sự phong phú về ý nghĩa Kinh Thánh, và Tôma Aquinô với nhu cầu tìm hiểu giáo lý thánh.

Thánh Augustinô: gia tăng lòng mến Chúa yêu người

Từ khi Augustinô được nghe Ambrôsiô giải thích và trích dẫn thư Phaolô,“Chữ viết thì giết chết, nhưng Thần Khí thì mang lại sự sống” (2 Cr 3,6) thì con mắt thiêng liêng của ngài được mở ra. Từ đó ngài hiểu Kinh Thánh như là ngôn ngữ hay ký hiệu của Thiên Chúa và mục tiêu của việc chú giải Kinh Thánh là giải mã các ký hiệu để đạt đến thực tại thánh thiêng, tức là tri thức về Thiên Chúa, đang tiềm ẩn trong đó. Tri thức về Thiên Chúa thì vượt trên khả năng tự nhiên của lý trí, do đó ngoài việc nghiên cứu triết học và tu từ học, tâm hồn con người cần được thanh luyện cùng với thẩm quyền của Giáo hội, tức là kinh nghiệm sống đức tin được tích lũy qua dòng thời gian. Tri thức mà Kinh Thánh mạc khải cho chúng ta chính là sự khôn ngoan giúp gia tăng đức tin và lòng “mến Chúa yêu người” nơi chúng ta.

Augustinô là nhân vật đầu tiên khai triển mối tương quan giữa ngôn ngữ và việc tìm hiểu thánh ý Chúa. Trước khi được rửa tội, ngài dạy môn tu từ học (rhetorics) nên rất am hiểu về văn chương và ngôn ngữ. Kinh Thánh chứa đựng mầu nhiệm thực tại vô hình trở thành hữu hình nơi Đức Kitô, thực tại siêu việt vốn là nguồn cội của mọi tri thức và khôn ngoan mà đức tin đang tìm kiếm. Đứng sau lối tiếp cận của Augustinô là triết học nhị nguyên của Platô: Cần phải giải thích những gì thay đổi, hữu hình, thuộc thời gian và lịch sử con người trong tương quan với những gì là bất biến, siêu việt, vĩnh cửu và kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa. Chỉ có tri thức về thực tại vĩnh cửu mới có thể giúp giải thích các ký hiệu vật chất, tức là ngôn ngữ của Kinh Thánh. Thực tại vĩnh cửu đó đang soi chiếu trên tâm hồn của con người và chờ đợi con người trở về nội tâm của chính mình. Do đó, chú giải Kinh Thánh bao gồm cả hai chiều kích khách quan (ngôn ngữ) và chủ quan (tâm hồn của người chú giải).

Từ khía cạnh khách quan, Augustinô xem ngôn ngữ như là ký hiệu nói lên ý định của tác giả. Người đọc dựa trên kinh nghiệm riêng của mình để giải mã những ký hiệu đó, nhưng với kinh nghiệm và uy tín của nhiều người khác thì sự hiểu biết đó sẽ được mở rộng và phổ quát hơn. Nếu Giáo Hội là một “cộng đoàn chú giải” vốn có uy tín và thẩm quyền trên cách cá nhân chú giải Kinh Thánh, thì truyền thống đức tin của Giáo hội cần phải được trân trọng. Từ khía cạnh chủ quan, Augustinô cho rằng nếu muốn nắm bắt mạc khải siêu việt đứng sau Kinh Thánh, thì người chú giải phải có một sự khao khát tâm linh cho hạnh phúc vĩnh cửu. Muốn nhận ra ánh sáng thần linh đang chiếu tỏa trên tâm hồn của con người, thì con người cần phải có: lòng kính sợ Thiên Chúa; lòng sùng mộ; gắn bó vào đức ái; dũng cảm tìm sự công chính; tâm hồn thanh luyện; và thái độ khôn ngoan rút tỉa từ thực hành chiêm niệm.[14] Chú giải Kinh Thánh không buộc phải có kiến thức mới lạ, nhưng đòi phải biết khám phá cho ra thánh ý Thiên Chúa, ngõ hầu đạt tới mức chiêm niệm các chân lý trường cửu vốn là đối tượng của sự khôn ngoan. Trong trường hợp hoài nghi về ý nghĩa của bản văn thì dùng quy tắc“Hãy chú giải để Lời Chúa làm gia tăng lòng mến Chúa yêu người.” Như thế, cả hai vế, ‘dựa trên đức tin chân chính của Giáo Hội’ và ‘gia tăng lòng mến Chúa yêu người’ đều là tiền thức để chú giải Kinh Thánh. Mục tiêu làm sáng tỏ ý nghĩa của những thực tại siêu việt tiềm ẩn trong Kinh Thánh có tương quan hết sức mật thiết với việc suy tư thần học trong giai đoạn Kinh Viện này.

Tiền Kinh Viện: gia tăng mức độ phong phú của bản văn

Các trường phái chú giải Kinh Thánh ở các thế kỷ đầu đã giúp cho nội dung của đức tin Kitô giáo giảm bớt tính thần thoại của các tôn giáo cổ xưa, nhưng cũng đưa đến tranh luận về một số chủ đề giáo lý nền tảng. Do đó, vai trò của các Công Đồng trở nên tất yếu để giải quyết các tranh chấp và thiết lập tính chính thống của thần học. Từ Nicea I (325) cho đến Nicea II (787), có tổng cộng bảy Công Đồng đã đóng góp vào việc thiết lập các quy phạm về tín lý Kitô giáo. Đây là giai đoạn việc chú giải Sách Thánh (Sacra Pagina) trở thành hàn lâm hơn, bao gồm những bản chú giải của các Giáo Phụ cùng với các đoạn trích dẫn ngắn gọn của các học giả bình luận về bài chú giải gốc. Tất cả được kết nối lại thành những bài “bình phẩm” (catena), thường mang tên của các học giả nổi tiếng như: Gioan Kim Khẩu, Ambrôsiô, Hilariô, Augustinô và Giêrônimô.

Ở thế kỷ X dưới triều đại Carolingius, một cải cách mới bắt đầu xuất hiện. Thay vì sáng tác những bài bình phẩm như trước đây thì người ta dùng “chú thích” (gloss), tức là những lời giải thích ngắn gọn và ý kiến cá nhân được ghi chú bên lề, chen vào giữa bản văn gốc, hoặc để riêng cuối sách, như cách chúng ta dùng “footnotes” hoặc “end notes” ngày nay. Trong các thế kỷ sau, nhiều câu hỏi và chủ đề thần học được thêm vào các “chú thích”; và cuối cùng, các “chú thích” ngày càng càng dài thêm ra và trở thành những “tiểu phẩm” bình luận riêng biệt, được các sinh viên ghi chép lại từ bài giảng của các giáo sư về bản văn gốc. Từ đó, việc chú giải Kinh Thánh sớm trở thành một môn học thuật riêng biệt, lan rộng từ thư viện của các Kinh sĩ Đan viện Victor (Victorines) đến Đại học Paris.

Nét đặc thù của chú giải Kinh Thánh thời Trung Cổ là cách dùng ngụ ngôn (allegory). Thay vì đi tìm một nền tảng nào khác bên ngoài (ẩn dụ, triết lý, kinh nghiệm thần bí) để minh họa cho ý nghĩa của Kinh Thánh, thì phương pháp ngụ ngôn nhấn mạnh các mức độ ngữ nghĩa. Phương pháp này gia tăng tối đa sự phong phú về ngữ nghĩa và thỏa mãn khát vọng chú giải của thời Trung Cổ. Ví dụ, hạn từ “Giêrusalem” là ngụ ngôn về bốn thực tại: thành đô Do Thái, Giáo Hội, Thiên Đàng, và linh hồn. Kết quả là có bốn ý nghĩa của bản văn: (1) Nghĩa lịch sử nhấn mạnh vào ý nghĩa cụ thể của mặt chữ hay thân xác; (2) Nghĩa biểu tượng chú giải theo luân lý hay tâm linh; (3) Nghĩa tiên trưng xem sự kiện quá khứ như hình ảnh về biến cố hiện tại, ví dụ, “tàu Nôê” hay “rắn đồng” là hình ảnh tiên trưng cho “Thánh giá”; (4) Nghĩa loại suy chỉ ra nhiều mức độ bản thể luận mà cùng một hạn từ có thể được dùng.

Thời đó, Kinh Thánh được xem như một Vương Cung Thánh Đường đầy dẫy những biểu tượng và hình ảnh, cho nên người chú giải phải tìm mọi cách để nói lên tính siêu việt của Đấng Tối Cao vốn vượt trên mọi giới hạn của ngôn ngữ và ý niệm. Trời Trung Cổ chưa có một học thuyết mạc khải rõ ràng và thần lý học hay thần học tự nhiên cũng chưa được phát triển đầy đủ. Các giáo phụ chú giải Kinh Thánh dựa trên niềm tin vào sự linh ứng của Lời Chúa. Đến thời Kinh Viện thì có khuynh hướng chú giải duy lý của Albertô Cả và khuynh hướng thần bí của Gioakim thành Flora. Khuynh hướng thần bí cuối cùng bị lên án và lối chú giải ẩn dụ cũng mất dần ảnh hưởng. Với sự ảnh hưởng của Tôma và nghiên cứu tại các đại học, thì việc khai triển các tín khoản (Sacra Doctrina) được tách ra khỏi ngành chú giải Kinh Thánh, và trở thành nền tảng cho thần học tín lý sau này.

Thánh Tôma: khai triển “Sacra Doctrina”

Trong khi học thuyết chú giải của Augustinô nhấn mạnh vào hảnh trình hoán cải nội tâm, thì Tôma Aquinô chú tâm nhiều hơn đến khía cạnh khách quan của bản văn. Qua nhãn quan duy thực của Aristotle: “Tất cả mọi tri thức đều bắt đầu từ giác quan”, Tôma lý luận rằng chúng ta không cần phải loại bỏ thực tại vật chất để có thể nhận ra ý nghĩa thiêng liêng của Kinh Thánh, nếu chúng ta biết cách kết nối đức tin với lý trí. Tôma cẩn thận so sánh hình thức của các bản văn để xác định tính trung thực và phân tích cách dùng ngôn ngữ của nó. Chú giải Kinh thánh thì đồng nghĩa với việc khai triển tri thức về Thiên Chúa và đó cũng là sứ mệnh của thần học.

Tôma cho rằng nếu Kinh Thánh nói về Thiên Chúa bằng nhiều loại ngôn ngữ thì người chú giải cần phải có sự hiểu biết về nhiều cách dùng ngôn ngữ khác nhau để nắm bắt chân lý của bản văn. Ngôn ngữ phủ định có thể nói chính xác về Thiên Chúa, nhưng chúng ta không thể mãi mãi nói “Thiên Chúa không là…”. Mặt khác, nếu dùng ngôn ngữ khẳng định (“Thiên Chúa là...”) thì cũng sẽ vướng vào sự mâu thuẫn của “đơn nghĩa” hay sự mơ hồ của “đa nghĩa”. Vì thế, chỉ có ngôn ngữ “loại suy” mới phù hợp nhất cho thần học, vì nó bao hàm sự hiểu ngầm về mức độ khác biệt bản thể luận giữa Thiên Chúa và con người. Phương pháp loại suy cho phép chúng ta dùng ngôn ngữ của thế giới này (khôn ngoan, chiến thắng, đá tảng, tức giận, v.v.) để nói về Thiên Chúa mà không bị mâu thuẫn. Thần học tự nhiên của Tôma đã dùng ngôn ngữ loại suy để “gọi tên” Thiên Chúa rất sáng tạo (Ngũ đạo).

Trong thế kỷ thứ XII, người ta truy vấn liệu Giáo Lý Thánh (sacra doctrina) có được xem là “tri thức” (scientia) hay không? Tôma giải quyết vấn đề này dựa trên cách Aristotle phân biệt giữa khoa học xuất phát từ các nguyên lý tự nhiên (số học và hình học) và khoa học khởi phát từ những nguyên lý thứ cấp (quang học thì dựa trên hình học; âm nhạc thì dựa trên số học). Theo Tôma, Giáo Lý Thánh là một khoa học thứ cấp xuất phát từ những nguyên lý được mạc khải; và qua đó, con người mới có được tri thức thực sự. Qua đức tin và sự hiểu biết đúng đắn về Kinh Thánh, thần học gia thông dự vào chính nguồn tri thức của Thiên Chúa, và chú giải nội dung của Giáo Lý Thánh. Thẩm quyền của họ được thể hiện qua việc trích dẫn Kinh Thánh hay các tác giả có uy tính trong các bài bình phẩm. Một khi trào lưu tranh luận về ý nghĩa của những lời chú giải trở nên tự lập và tách rời khỏi công việc diễn giải văn bản, thì danh xưng “Thần Học” đã dần dần được dùng để thay thế cho Giáo Lý Thánh (sacra doctrina).

CHÚ GIẢI KINH THÁNH THỜI CẬN ĐẠI

Sau thế kỷ XV, sự tổng hợp triết-thần bị thử thách và việc học thuyết “bốn ý nghĩa” của bản văn thời Kinh Viện cũng mất dần hiệu lực. Quan điểm chú giải Kinh Thánh của Origen, “chữ viết thì giết chết, còn Thần Khí mới ban sự sống” (2Cor3:4-7) được phong trào Cải Cách mặc lên một chiếc áo mới. Vấn đề “sống/chết” giờ đây trở thành tình huống hiện sinh của con người đứng trước lời mời gọi của Kinh Thánh. Hơn nữa, não trạng Khai Sáng nêu lên nhu cầu tìm hiểu ý nghĩa của các bản văn và nền văn hóa xa lạ vốn bị đánh mất vì khoảng cách lịch sử. Cuối cùng, triết học lãng mạn đã biến chú giải bản văn thành một nghệ thuật cân bằng giữa hai khía cạnh khách quan và chủ quan của ngôn ngữ, lội ngược dòng chảy từ “ngôn từ” đến “ý tưởng” của tác giả. Để tránh sự hiểu lầm về văn hóa và bản văn xa lạ, thì người chú giải cần khai triển không gian “phía sau bản văn”.

Phong Trào Cải Cách chú giải Kinh Thánh

Vào khoảng 1520, Martin Luther được giao trách nhiệm soạn bộ bài giảng cho phụng vụ suốt cả năm. Khi giải thích câu “Và họ đã tìm thấy cả Mary và Giuse và con trẻ nằm trong máng cỏ” (Lc 2:16), Luther giải thích: Mary đại diện cho Mẹ Giáo hội, Giuse đại diện cho các giám mục và các cha xứ, vì Giáo hội thì quan trọng hơn hàng giáo phẩm, cho nên Mary được Kinh Thánh đề cập đến trước Giuse. Luther đang dùng một hình thức chú giải ẩn dụ (allegorical) bắt nguồn từ Philo ở Alexandria (20BC-40AD), vốn cho rằng ý nghĩa chân chính cho bản văn bên dưới từ nguyên của bản văn. Ví dụ, “Đức Chúa trồng một vườn trong Eden” phải được hiểu là Đức Chúa đặt nhân đức tốt lành của tự nhiên vào loài người. Luther cố tìm trật tự bên dưới bản văn (sự tốt lành của Giáo hội bên dưới phẩm trật chức sắc bề ngoài). Điều mà Luther lên án là thói quen của Kinh Viện dùng các chân lý phổ quát (triết học) để giải thích ý nghĩa của mạc khải Kinh Thánh. Luther cho rằng đây là một sự đam mê mù lòa, hay một tình trạng đang bị rơi vào cạm bẩy của Satan, lạm dụng sự đam mê cho tri thức độc lập để tách con người ra khỏi sự tuân phục vào thẩm quyền của Thiên Chúa. Thánh Thần là tác giả và cũng chính là Đấng làm chứng trong lòng các tín hữu tin vào Lời Chúa. Thay vì ẩn dụ, Luther dùng lối chú giải “từ nguyên” (literal sensu), giải thích bản văn theo từ ngữ gốc trong bối cảnh lịch sử đặt thù của nó, với mục tiêu luân lý hóa bản văn cho phù hợp với linh đạo Cải Cách của họ.

John Calvin (1509-1564) cũng nhấn mạnh vào ý nghĩa thiêng liêng của bản văn, tức là những gì Thánh Thần muốn dạy cho chúng ta qua bản văn. Nếu Kinh Thánh mạc khải ý định của Thiên Chúa thì người chú giải buộc phải trừu xuất từ ngôn ngữ nguyên thủy, bối cảnh lịch sử, cảm xúc chủ quan và sự kiện khách quan những ý nghĩa nguyên sơ và tự nhiên của mạc khải. Mục tiêu của việc chú giải là mang lại ơn cứu rỗi của Đức Kitô qua lời mời gọi của bản văn và sự đáp trả nơi người đọc Kinh Thánh. Hiểu Kinh Thánh là phải chấp nhận thẩm quyền tuyệt đối của Đức Kitô, trái ngược lại với mọi thẩm quyền con người. Vì lý do này, phải thông diễn Đức Kitô như là chủ đề chính yếu của cả Kinh Thánh, từ khởi đầu cho đến kết thúc, Ngài là mối dây hiệp nhất nối kết mọi cuốn sách của Kinh Thánh lại với nhau. Các thần học gia Cải Cách đã thay lối chú giải bản văn thời Trung Cổ bắng bốn nguyên tắc sau đây: (1) Kinh thánh là bản thiết kế (blue print) của Thánh Thần; (2) Kinh thánh phải được hiểu theo cách từ nguyên trong bối cảnh lịch sử của nó; (3) Thần Khí muốn chúng ta đón nhận chỉ một ý nghĩa cho mỗi bản văn (chứ không phải bốn ý nghĩa của thời Kinh Viện); và (4) Đức Kitô là tiêu điểm của toàn thể Kinh Thánh.

John Calvin chỉ ra chính Đức Kitô đã nói về mình như là tiêu điểm cho việc chú giải. “Rồi bắt đầu từ ông Mô-sê và tất cả các ngôn sứ, Người giải thích cho hai ông những gì liên quan đến Người trong tất cả Sách Thánh.” (Lc 24-27). Người chú giải phải hiểu vai trò chính yếu của Đức Kitô trong Kinh Thánh: “Thầy đã từng nói với anh em rằng tất cả những gì sách Luật Mô-sê, các Sách Ngôn Sứ và các Thánh Vịnh đã chép về Thầy đều phải được ứng nghiệm. Bấy giờ, Người mở trí cho các ông hiểu Kinh Thánh (Lc 24:45). Sự hiện diện của Đức Kitô cũng được tiên trưng nhiều cách trong Cựu Ước. Joshua là tiếng Hebri cho “Giêsu”, David là một chiến sĩ như Đức Kitô chiến đấu chống lại kẻ thù của Thiên Chúa. Moses đóng vai sự hiện diện của Chúa Cha và Aaron đóng vai Chúa Con-Đấng Ngôn Sứ trước mặt Pharaoh. Nói chung, nguyên tắc chú giải của phong trào Cải Cách là ‘chỉ có Kinh thánh mới chú giải Kinh thánh.”

Hơn nữa, tất cả biến cố lịch sử trong Cựu Ước là hình bóng về những sự kiện trong cuộc đời của Đức Kitô, như hành trình của dân Do Thái qua sa mạc, máu của Abel kêu thất trời cao, con cừu tế lể thay cho Isaac, Moses ẩn mình để tránh bị sát hại. Tương quan giữa Gioan Tẩy Giả với Đức Kitô được tiên trưng qua tương quan giữa Elijah và Elisha. Cái chết và sự sống lại của Người đã hiện diện trong Cựu Ước, như được tiên trưng qua sự kiện Seth là sự sống lại cho cái chết công chính của Abel; con bồ câu từ tàu Noah khám phá “sự sống” được tái hiện sau cơn hủy diệt của bảo lụt; Đức tin của Abraham được “hồi sinh” vì Issac coi như là đã chết (Hb 11:19). Giuse mang lại “sự sống” gia đình của ông qua nạn đói (St 45:5-6). Biến cố Xuất Hành là “sự sống” của Israel từ ngục tù đến đất hứa. Từ Sáng Thế đến Cánh Chung, Lời Thiên Chúa được Thánh Thần viết qua ngôn ngữ của lịch sử làm chứng cho công cuộc cứu rỗi của Đức Kitô. Không chỉ Kinh Thánh mạc khải Thiên Chúa, mà chính Thiên Chúa là người chú giải Kinh Thánh. Người chú giải phải đắm chìm trong dòng chảy của mạc khải Kinh Thánh. Cố tình giải thích Kinh Thánh từ một gốc độ ngoại tại nào đó là đã chọn sự chết. Nhân đức thiết yếu cho việc chú giải là từ bỏ chính mình, để lòng trí chúng ta được đổ đầy với Lời mà chính Thiên Chúa đã viết xuống và ban cho chúng ta.

Giải Thích Học Thời Khai Sáng

Giải thích học thời Khai Sáng phản hồi lại lối giải thích “từ nguyên-thiêng liêng” của phong trào Cải Cách. Thời Khai Sáng nhấn mạnh vào yếu tố con người và lịch sử đứng sau bản văn với mục tiêu “phục hồi chính xác” ý nghĩa đã bị đánh mất. Họ khai triển ba phạm vi chú giải sau đây.

Thứ nhất, chân trời tri thức của bản văn cần phải được am hiểu một cách tiệm tiến, cả từng phần và toàn phần của nó trong chân trời lịch sử và khối óc mà nó được thành hình. Baruch Spinoza (1632-77) đề nghị người chú giải là một quá trình tiệm tiến và dọ dẫm. Cấn phải đi theo một “vòng tròn giải thích” từ sự hiểu biết từng phần đến sự hiểu biết của toàn phần của bản văn, rồi dùng sự am hiểu tổng thể để giải thích ý nghĩa của các phần riêng biệt. Mỗi bước tiến hay lùi khi nghiên cứu lịch sử sẽ gia tăng sự hiểu biết về bản văn. Mặt khác, Giambattista Vico (1668-1744) lý luận rằng con người là chủ thể tự do, không thể được giải thích (explain) cách trọn vẹn, nhưng cần phải được hiểu (understand). Hiểu bản văn là việc thấu triệt cho tận nguồn về chân trời tri thức của nó vốn là thế giới của con người, và nuốn hiểu nó thì ta phải đặt mình vào trong cuộc sống và hoạt động của bối cảnh lịch sử.

 Thứ nhì, ý nghĩa của ngôn ngữ của bản văn phải được liên kết với khả năng nhận thức. Johann Martin Chladenius (1710-1759) cho rằng để hiểu các hạn từ tối nghĩa, chúng ta nên xét kỹ những cách hiểu ngầm, các tiền thức và tiền thiết khách quan của ngôn ngữ ở mỗi thời đại. Mặt khác, Georg Friedrich Meier (1718–77) khai thác tính khách quan từ ký hiệu ngôn ngữ và ký hiệu tự nhiên được dùng trong bản văn. Ý nghĩa của ký hiệu có thể được xác định từ ngữ cảnh hay mối tương quan của nó với các ký hiệu khác mà không cần phải nại đến các yếu tố bên ngoài ngôn ngữ.

Cuối cùng, bối cảnh xã hội của bản văn và tâm lý của tác giả là hai yếu tố quan trọng. Georg Anton Friedrich Ast (1778-1841) cho rằng lịch sử tính của bản văn là “vị thế” (location) của nó trong tương quan với lịch sử thế giới, tức là mối tương tác giữa bản văn với hậu cảnh lịch sử và truyền thống văn hóa của nó. Mặc khác, Christian Wolff (1679-1754) nhấn mạnh và khả năng khám phá cá tính đặc thù của tác giả. Hiểu một bản văn là phải biết cách ngôn ngữ đã hình thành như thế nào từ dòng chảy của tư tưởng nơi tâm hồn của tác giá. Mối quan tâm này sẽ được giải thích học lãng mạn khai triển sâu rộng hơn.

Nói tóm lại, chú giải học Khai Sáng đã mang lại nhiều thay đổi. Thời cổ điển nhắm vào thực tại siêu việt của Thiên Chúa nhưng thời Khai Sáng nhắm vào tinh thần văn hóa cổ điển đứng sau cách dùng ngôn ngữ. Thời cổ điển tìm sự phóng phú của các mức độ của ngôn ngữ (ẩn dụ, biểu tượng, loại suy, luân lý, vv.) nhưng thời Khai Sáng tìm sự thống nhất và chính xác về ý vị của bản văn. Thời cổ điển nhắm vào không gian bên trong bản văn (tu từ học) còn thời Khai Sáng tìm hiểu không gian phía sau bản văn (văn hóa cổ xưa, thẩm quyền của tác giả, truyền thống nguồn liệu). Thời cổ điển đề cao sự thống nhất và hài hòa vì Thiên Chúa chính là tác giả của Kinh Thánh, nhưng thời Khai Sáng chi ra tính đặc thù của nhiều truyền thống lịch sử (J, E, P, D). Cuối cùng, thời cổ điển, “hiểu sai” là không nhận ra ý nghĩa thiêng liêng (ân sủng) của Lời Chúa, nhưng thời Khai Sáng “hiểu sai” là không nắm bắt được “tinh thần” của lịch sử hay văn hóa xa lạ.

Giải Thích Học Lãng Mạn

Schleiermacher (1768-1834) đã tạo nên khoa giải thích học qua nhãn quan triết học lãng mạn của Schelling. Ông lý luận rằng việc chú giải bắt đầu từ bản văn nhưng phải lội ngược dòng chảy ngôn ngữ đến các hoạt động tinh thần của tác giả. Vi thế, chú giải Kinh Thánh không chỉ cần kỹ năng ngữ phạm để hiệu ngôn ngữ và văn hóa xa lạ, mà còn cả kỹ năng tâm lý tìm hiểu tư tưởng và đời sống cá nhân của tác giả. Lý tưởng chú giải của Schleiermacher là “hiểu tác giả hơn tác giả hiểu chính mình”, và nếu bản văn là một sáng tác nghệ thuật, phản ảnh của một tâm hồn đặc thù và phức tạp, thì người chú giải cần phải “nhập tâm” để cảm nhận sự rung động nơi tâm hồn của tác giả.

Hơn nữa, nếu tác giả là một thiên tài thì sẽ không có quy tắc cố định nào để chú giải cho chính xác. Nhưng mỗi cá nhân thể hiện phần nào đó của bản tính nhân loại, do đó cần phải khả năng so sánh sự sống động liên tục giữa bản ngã và bản văn, tức là biện phân những gì giống nhau và khám phá những gì khác nhau nơi tác phẩm. Không phải tác giả nào cũng là người bình phẩm lý tưởng nhất cho tác phẩm của họ. Hiểu một tác phẩm là mang “tiềm thức” của tác giả lên mức độ “ý thức” nơi người chú giải, với bản văn là trung gian vốn đưa tư tưởng của tác giả lên mức độ ngôn ngữ. Muốn tránh hiểu lầm, người chú giải cần phải dọ dẫm từng bước, và xem tác phẩm như là những làn sóng âm hưởng tạo nên do tác giả bơi lội trong biển cả ngôn ngữ. Đây là hành trình tìm hiểu một cá thể rất khác với ta, một đối tác độc nhất vô nhị. Chú giải là một tiến trình ước đoán liên tục từ hiểu đến hiểu đúng hơn về ý nghĩa của tác phẩm, với mục tiêu chủ yếu là tránh hiểu lầm.

Từ quan điểm chú giải lãng mạn này, Schleiermacher cho rằng sứ mệnh của thần học là tìm hiểu kinh nghiệm đứng sau ý tưởng của tác giả. Ví dụ, kinh nghiệm nào của Đức Giêsu đã thôi thúc Ngài theo đuổi sứ mạng rao giảng Nước Trời? Trải nghiệm tôn giáo nào đã làm cho Phaolô nhấn mạnh đến khía cạnh “công chính hóa”? Thần học thông diễn cách con người tiếp nhận “mạc khải”, nhưng mặt khác, hiệu lực của nó thì nằm nơi khả năng nó được tiếp nhận bởi cộng đoàn đức tin. Đây là nền tảng của “học thuyết tiếp nhận” (reception theory). Nhiều thế hệ qua lịch sử đã tiếp tục đón nhận, giải thích và mang ý nghĩa của Kinh Thánh vào trong bối cảnh của mình. Vì thế, mạc khải Tin Mừng mang tính thông diễn, mỗi thế hệ Kitô hữu sẽ tiếp nhận mặc khải khác nhau tùy theo bối cảnh của mình. Mỗi bản Tin Mừng (Mc, Mt, Lc, Ga) cũng là một sự tiếp nhận hay thông diễn tới lui giữa Cựu Ước và Biến cố Kitô, qua bối cảnh đức tin của mỗi cộng đồng chú giải. Như thế, sự đa dạng của các bản Tin Mừng cho chúng ta sự phong phú về ý nghĩa của biến cố Kitô.

Tuy nhiên, học thuyết chú giải của Schleiermacher còn nhiều thiếu sót. Liệu kỹ thuật nhập tâm có thể lột trần mọi động lực ẩn khuất của tác giả và bản văn không? Liệu độc giả có thể bước vào tiến trình nhập tâm một cách vô tư không? Liệu tính sáng tạo của bản văn có thật sự phản ánh một tâm hồn tự do và lành mạnh, nhất là trong trường hợp mạo văn hay mạo danh? Schleiermacher đặt nặng về cá tính của tác giả, nhưng ý nghĩa của văn chương truyền khẩu (ca dao và tục ngữ) cũng không kém phong phú cho dù thiếu tác giả cụ thể. Chúng ta có thật sự hiểu tác giả “hơn” tác giả hiểu chính mình không? hay chỉ hiểu “khác” tác giả thôi (Paul Ricoeur)? Một khi tác phẩm thoát khỏi ngòi bút của tác giả thì ỳ nghĩa của nó trở thành bất định (Jack Derida), vậy thì vai trò của tác giả có quan trọng không? Ngôn ngữ không phải là một hệ thống đóng kín, nhưng luôn mở ra với chân trời vô hạn của cách dùng (Wittgenstein).

CÁC VẤN ĐỀ TỒN ĐỌNG

Một giả định chung trong việc chú giải Kinh Thánh là cuối cùng chân lý mạc khải sẽ được tìm thấy nơi các bản văn, vì đó là lời đã được linh ứng. Nhưng khi nghiên cứu về chú giải trở nên đa dạng và chuyên sâu hơn, thì nó cũng có nguy cơ trở thành môn bình phẩm văn học, khảo cổ học, văn hóa học hay sử liệu học. Giả định chung của các khoa học này là ý nghĩa nguyên thủy của bản văn sẽ được khôi phục lại cách chính xác. Nhưng giả định này là sai lầm vì chúng ta không bao giờ có thể hoàn toàn tái thiết lịch sử như nó đã xảy ra mà không bao hàm các tiên kiến của mình trong đó. Phương pháp bình phẩm lịch sử coi nhẹ tính đa nghĩa của ngôn ngữ và khả năng tiếp nhận đối với bản văn. Cách người đọc tiếp nhận bản văn thì đã mang một lịch sử chú giải của các bản văn cổ điển trên quan điểm của người đọc rồi.

Hơn nữa, có một não trạng tương đối nếu chỉ giới hạn tính linh ứng trong bối cảnh nguyên thủy của bản văn như một số người cho rằng mạc khải chấm dứt sau khi các môn đệ cuối cùng của Chúa Giêsu qua đời. Đức Giáo Hoàng Benedict XVI chỉ ra nguy cơ việc nghiên cứu lịch sử các tín điều (history of dogma) trở thành một “giáo điều lịch sử” (dogma of history). Lịch sử không phải là tiêu chuẩn độc nhất để khẳng định chân lý của mạc khải, nhưng cần phải có sự quân bình giữa tính vẹn toàn của mạc khải Kinh Thánh, sự linh ứng tiếp diễn trong truyền thống Giáo hội, như được thấy nơi các tín điều về Đức Mẹ (1854 &1950).

Tân Ước giả định tính linh ứng của Lời Chúa, nhưng không giải thích tiến trình linh ứng đã xảy ra như thế nào. Trong quá khứ, linh ứng được hiểu như Thiên Chúa soi sáng các thánh sử viết ra bản văn, như Thiên Chúa gợi ý và tác giả đóng vai thư ký. Công Giáo nhấn mạnh vào linh ứng về nội dung, còn Tin Lành nhấn mạnh về ngôn ngữ của Kinh Thánh. Cách hiểu biết này giúp phân biệt giữa nội dung và hình thức của mạc khải. Nhưng ngày nay, học thuyết linh ứng được mở rộng và bao gồm cả truyền thống và lịch sử tiếp thu của bản văn. Ví dụ, qua trải nghiệm Phục Sinh, các môn đệ nhận ra tính linh ứng của các biến cố “Xuất Hành” và “Vượt Qua” của Cựu Ước. Linh ứng của Kinh Thánh là một triến trình liên tục của hành trình chú giải bản văn qua nhãn quan chú giải của trải nghiệm hiện tại.

Một nguy cơ khác nữa là khi việc chú giải Kinh Thánh chỉ lưu tâm về việc bảo vệ chân lý tuyệt đối của bản văn thì rất dễ bị rơi vào não trạng duy cơ bản (fundamentialism). Đây là một sự phản bác bằng cách rút lui vào trong vỏ bọc kiên cố và bảo thủ. Ngay từ lúc đầu, Giáo Hội luôn tôn trọng tính đa dạng và phong phú về ý nghĩa của các bản văn Kinh Thánh, như được thấy khi Tertulianô lên án thói quen chỉ chấp nhận nghĩa đen của bản văn nơi các nhóm Ngộ Giáo. Cho dù chủ thuyết duy cơ bản muốn giải thích Kinh Thánh một cách đơn sơ và giản dị, nhưng chính nó đang bị thao túng bởi khuynh hướng bảo thủ trong các cộng đoàn Kitô giáo nơi nó xuất phát.

Cuối cùng, tiền kiến hay tiền thức của người chú giải đóng vai quan trọng trong việc chú giải như Thánh Augustinô đã nói về tâm hồn thanh sách và sự khao khát điều thánh thiện. Ngày nay, thần học Giải phóng nhấn mạnh sự đồng cảm và hiệp thông với đau khổ hay áp bức như là điều kiện để hiểu ý nghĩa giải phóng của Tin Mừng. Gadamer chỉ ra ảnh hưởng của những bản văn cổ điển khác lên chân trời tri thức của bất cứ ai tiếp cận một tác phẩm mới. Riceour cho thấy khoảng cách giữa bản văn và người đọc là điều kiện thiết yếu để ý nghĩa được phát triển qua sự giao thoa của các truyền thống chú giải. Habermas lưu tâm về thái độ phẻ phán thiết yéu cho nhận diện về ý thức hệ tiềm tàng trong bản văn hay trong tiến trình chú giải. Ý nghĩa của tác phẩm thuộc về truyền thống lịch sử vốn tiếp thu nó sau khi thoát ra khỏi ngòi bút của tác giả, thì tiền kiến và tiền thức của người chú giải luôn nằm trong quỹ đạo của vòng tròn giải thích giữa bản văn và người đọc. Một tác phẩm trở nên “cổ điển” là do nó đã dấy lên những nỗi thao thức nơi các thế hệ sau đó, và liên tục được đón nhận. Thế thì, chú giải Kinh Thánh là một hành trình liên tục và không có đoạn kết.

Tài liệu tham khảo:

Joseph Tân Nguyễn, Thông Diễn Học. NXB Đồng Nai, 2021

F.D.E. Schleiermacher. Hermeneutics. The Handwritten Manuscript. Heinz Kimmerle, ed. Missoula Scholar Press, 1977.

David Tracy & Robert Grant, A Short History of the Interpretation of the Bible. Fortress Press. Revised & Enlarged edition (1988)

Every Dulles. “Hermeneutical Theology”, Communio 6 (Spring 1979).

Hans-George Gadamer. Philosophical Hermeneutics. David E. Linge dịch. University of California Press, 1976,


[1] https://www.ccel.org/ccel/lake/fathers2.html

[2] https://en.wikipedia.org/wiki/Epistle_of_Barnabas

[3] https://pursuingveritas.com/2015/05/19/the-marcion-problem-irenaeus/

[4] https://www.biblestudytools.com/dictionary/ptolemaeus/

[5] https://www.britannica.com/biography/Valentinus

[6] “Về cách nhận diện và đả phá các tri thức ngụy biện” (180 CN),

[7] https://en.wikipedia.org/wiki/Theodore_of_Mopsuestia

[8] https://en.wikipedia.org/wiki/Jerome

[9] Ađrianô xuất bản cuốn Dẫn vào Kinh Thánh (Introduction to the Divine Scripture, 425),

[10] Cuốn Cẩm Nang Quy Phạm về Thiên Luật (Regulative Institute of Divine Law, 550) của Junilius Africanus

[11] https://en.wikipedia.org/wiki/Tertullian

[12] https://en.wikipedia.org/wiki/Methodius_of_Olympus

[13] https://en.wikipedia.org/wiki/Vincent_of_L%C3%A9rins

[14] https://en.wikipedia.org/wiki/De_doctrina_Christiana


Chia sẻ