Skip to content
Main Banner
LỄ CÁC THÁNH NAM-NỮ (01/11) - Triết III bắt đầu nộp đề tài, dàn bài tiểu luận. (04/11) - HỌP HỘI ĐỒNG QUẢN TRỊ (16/11) - HỘI THẢO CHUYÊN ĐỀ THẦN (23/11) - LỄ ĐỨC MARIA VÔ NHIỄM (nghỉ bù) (09/12) - Tiết học cuối của học kì I (10/12) - Ôn thi học kì I (16/12)

CHÚ GIẢI KINH THÁNH THỜI CẬN ĐẠI

BTT HOCVIEN OFMVN
2024-05-05 10:21 UTC+7 318

Sau thế kỷ XV, sự tổng hợp triết-thần của Kinh Viện mau chóng tan rã và việc chú giải Kinh thánh cũng có nhiều thay đổi rất khác biệt. Trước tiên, phong trào Cải Cách với động lực chống lại sự thống trị của Giáo hội, đã mặc một ý nghĩa mới lên lối chú giải nhị nguyên của Origen, “chữ viết thì giết chết, còn Thần Khí mới ban sự sống” (2Cor3:4-7). Vấn đề “sống/chết” giờ đây được hiểu như là tình huống hiện sinh của con người đứng trước lời mời gọi của Kinh Thánh. Mặt khác, phong trào Khai Sáng xem Kinh Thánh như một bản văn của văn hóa cổ xưa, với khoảng cách và chân trời lịch sử cần phải vượt qua. Các học giả thời Khai Sáng đã khai triển một khoa thông diễn học riêng biệt, với mục tiêu phục hồi sự tự thức của các nền văn hóa xa lạ. Cuối cùng, qua nhãn quan triết học lãng mạn, Schleiermacher (1768-1834) đã hệ thống hóa nhu cầu đồng cảm của thời Khai Sáng thành một nghệ thuật cân bằng giữa hai khía cạnh khách quan và chủ quan của việc chú giải bản văn, với mục đích “hiểu tác giả hơn tác giả hiểu chính mình”. Cho dù dự án này có vẽ lý tưởng, nhưng nó nhắc nhở chúng ta một chân lý rằng chú giải Kinh Thánh là một hành trình tiệm tiến giữa “tin để mà hiểu” và “hiểu để mà tin” (Thánh Augustinô). Bài này sẽ sơ lược qua ba giai đoạn chú giải Kinh Thánh: Phong Trào Cải Cách, thời đại Khai Sáng, và quan điểm lãng mạn của Schleiermacher.

CHÚ GIẢI KINH THÁNH THEO PHONG TRÀO “CẢI CÁCH”

Vào khoảng 1520, Martin Luther được giao trách nhiệm soạn bộ bài giảng cho phụng vụ suốt cả năm. Khi giải thích câu “Và họ đã tìm thấy cả Mary và Giuse và con trẻ nằm trong máng cỏ” (Lk 2:16), Luther giải thích: Mary đại diện cho Mẹ Giáo hội, Giuse đại diện cho các giám mục và các cha xứ, vì Giáo hội thì quan trọng hơn hàng giáo phẩm, cho nên Mary được Kinh Thánh đề cập đến trước Giuse. Luther đang dùng một hình thức chú giải ẩn dụ (allegorical) vốn đã bắt nguồn từ Philo Judeaus ở Alexandria (20BC-40AD), vốn cho rằng ý nghĩa chân chính cho bản văn bên dưới từ nguyên của bản văn. Ví dụ, “Đức Chúa trồng một vườn trong Eden” phải được hiểu là Đức Chúa đặt nhân đức tốt lành của tự nhiên (Eden = nhân đức, thiện hảo) vào loài người. Cách Luther tìm trật tự bên dưới bản văn (Giáo hội/phẩm trật chức sắc) để giải thích ý nghĩa của bản văn phản ánh quan điểm chống đối Giáo hội Roma, nhưng vẫn chưa ra khỏi giới hạn có thể chấp nhận được của phương pháp ẩn dụ. Những gì các học giả Cải Cách lên án là thói quen của thần học Kinh Viện đi ra ngoài Kinh Thánh, dùng các chân lý phổ quát (triết học) mà giải thích ý nghĩa của mạc khải Kinh Thánh. Luther và Calvin cho rằng đây là một sự đam mê mù lòa, hay một tình trạng đang bị rơi vào cạm bẩy mà Satan dùng để phá hoại thẩm quyền của Kinh Thánh. Satan tận dụng sự đam mê tri thức độc lập để tách con người ra khỏi sự tuân phục vào thẩm quyền của Thiên Chúa. KinhThánh làm chứng cho thẩm quyền của chính nó vì tác giả cuối cùng của nó là Thánh Thần, cũng chính là Đấng làm chứng trong lòng các tín hữu tin vào Kinh thánh là Lời của Chúa. Thay vì ẩn dụ, các thần học gia Cải Cách đề nghị phương pháp chú giải “từ nguyên” (literal sensu), giải thích bản văn theo ngữ pháp gốc trong bối cảnh lịch sử đặt thù của nó, với mục tiêu luân lý hóa bản văn cho phù hợp với linh đạo Cải Cách của họ.

John Calvin (1509-1564) cho rằng mục tiêu của việc chú giải Kinh Thánh là nhận ra ý nghĩa thiêng liêng của bản văn, tức là ý nghĩa mà Chúa Thánh Thần muốn dạy cho chúng ta qua bản văn. Nếu bản văn Kinh thánh mạc khải ý định của Thiên Chúa thì người chú giải buộc phải trừu xuất từ ngôn ngữ nguyên thủy, bối cảnh lịch sử, cảm xúc chủ quan và sự kiện khách quan để mang lại ý nghĩa đơn sơ và tự nhiên của mạc khải. Luther thêm vào, chú giải không chỉ là việc mang lại tri thức từ nguyên hay lịch sử của bản văn, nhưng là ơn cứu rỗi của Đức Kitô qua lời mời gọi của bản văn và sự đáp trả nơi người đọc Kinh Thánh. Hiểu Kinh Thánh là phải chấp nhận thẩm quyền tuyệt đối của Đức Kitô, trái ngược lại với mọi thẩm quyền con người. Vì lý do này, phải hiểu Đức Kitô là chủ đề chính yếu của cả Kinh Thánh, từ khởi đầu cho đến kết thúc, Ngài là mối dây hiệp nhất và duy nhất nối kết mọi cuốn sách của Kinh Thánh lại với nhau. Các thần học gia Cải Cách dùng bốn nguyên tắc sau đây để phản hồi lối chú giải ẩn dụ của Giáo hội thời Trung Cổ: (1) Kinh thánh là bản thiết kế (blue print) của Thánh Thần; (2) Kinh thánh phải được hiểu theo cách nguyên văn trong bối cảnh lịch sử của nó; (3) Thần Khí muốn chúng ta đón nhận chỉ một ý nghĩa cho mỗi bản văn (chứ không phải bốn ý nghĩa của thời Kinh Viện); và (4) Đức Kitô là tiêu điểm (focus) của toàn thể Kinh Thánh.

Ngoài ra, Calvin cũng dùng phương pháp “triên trưng” (typology) để minh họa rằng chính Đức Kitô đã dùng mình như là tiêu điểm cho việc chú giải Kinh Thánh. “Rồi bắt đầu từ ông Mô-sê và tất cả các ngôn sứ, Người giải thích cho hai ông những gì liên quan đến Người trong tất cả Sách Thánh.” (Lk 24-27)Đức Kitô hiểu vai trò chính yếu của Người trong Kinh Thánh: “Thầy đã từng nói với anh em rằng tất cả những gì sách Luật Mô-sê, các Sách Ngôn Sứ và các Thánh Vịnh đã chép về Thầy đều phải được ứng nghiệm. Bấy giờ, Người mở trí cho các ông hiểu Kinh Thánh (Lk 24:45). Sự hiện diện của Đức Kitô trong Cựu Ước cũng được nhận thấy qua cách đọc “tiên trưng”. Ví dụ, Joshua là tiếng Hebri cho “Giêsu”, David là một chiến sĩ cũng như Đức Kitô chiến đấu chống lại kẻ thù của Thiên Chúa. Chính Đức Kitô hằng sống đã hiện diện và tác động lên các vị thánh của Cựu Ước và tạo nên sự tiên trưng giữa hai lời Giao Ước. Ví dụ, hai vai trò của Moses và Aaron trong Xuất Hành 7:1 cho thấy Thiên Chúa là người xác định sự tiên trưng: Moses đóng vai sự hiện diện của Chúa Cha và Aaron đóng vai của Chúa Con-Đấng Ngôn Sứ trước mặt Pharaoh. Nói chung, guyên tắc chú giải của phái Cải Cách là ‘chỉ có Kinh thánh mới chú giải Kinh thánh.”

Các thần học gia Cải Cách chú giải toàn thể Kinh Thánh quy về trung tâm là Đức Kitô. Nhiều biến cố lịch sử trong Cựu Ước như hành trình của dân Do Thái qua sa mạc, máu của Abel kêu thất trời cao, con cừu tế lể thay cho Isaac, Moses bị dấu kín để tránh bị Pharaoh sát hại, tất cả là hình bóng tiên trưng của những biến cố quan trọng trong cuộc đời của Đức Kitô. Không chỉ thế mà chính Đức Kitô còn xác định vai trò của Gioan Tẩy Giả với ngài như được tiên trưng qua tương quan giữa ngôn sứ Elijah và Elisha. Nếu Đức Kitô là thành tố thiết yếu cho sự thông hiểu Cựu Ước và tính liên tục với Tân Ước, thì công cuộc cứu rỗi, cái chết và sự sống lại của Người cũng phải hiện diện trong Cựu Ước. Ví dụ, lời hứa “Ta sẽ gây mối thù giữa mi và người đàn bà, giữa dòng giống mi và dòng giống người ấy.” (St 3:25) là sự sống lại của Adam và Eve. Seth là sự sống lại cho cái chết công chính của Abel. Con bồ câu Noah thả ra sau đã khám phá sự sống được tái hiện sau cơn hủy diệt của bảo lụt. Đức tin của Abraham là đức tin hồi sinh một khi ông đón nhận đứa con vốn được coi như là đã chết (Hb 11:19). Giuse mang lại sự sống cho cha và các anh em của ông qua nạn đói (St 45:5-6). Biến cố Xuất Hành đánh dấu sự sống của Israel từ ngục tù đến đời sống mới ở đất hứa.

Nói tóm lại, vai trò trung tâm của Đức Kitô đã giúp các thần học gia Cải Cách khỏi rơi vào cạm bẩy của ẩn dụ. Tất cả mọi sự đều phải ăn khớp với nhau: từ Sáng Thế đến Cánh Chung, Kinh Thánh là Lời của Thiên Chúa, thánh thiện và không thể bị sai lầm, vốn đã được Thánh Thần viết qua ngôn ngữ của lịch sử, để gom góp dân Chúa lại thành một trình thuật làm chứng cho công cuộc cứu rỗi của Đức Kitô. Chúng ta không thể tách biệt thẩm quyền của Kinh Thánh ra khỏi việc chú giải Kinh Thánh vì không chỉ Kinh Thánh là Lời Chúa được mạc khải, mà chính Thiên Chúa là người chú giải Kinh Thánh. Muốn hiểu Kinh Thánh thì người chú giải phải đắm chìm trong dòng chảy của mạc khải Kinh Thánh. Một khi chúng ta cố giải thích Kinh Thánh từ một gốc độ ngoại tại nào đó, thì chúng ta đã chọn sự chết. Nhân đức thiết yếu cho việc chú giải Kinh thánh là từ bỏ chính mình, để lòng trí chúng ta được đổ đầy với tư tưởng của Lời Chúa, vì chính Thiên Chúa đã viết xuống Lời của Ngài và ban cho chúng ta.

GIẢI THÍCH HỌC THỜI KHAI SÁNG

Thông diễn học thời Khai Sáng phản hồi lại lối giải thích “từ nguyên-thiêng liêng” của phong trào Cải Cách. Họ nhấn mạnh vào yếu tố tác giả con người và cộng đoàn đứng sau bản văn, với mục tiêu là “phục hồi” ý nghĩa của cái đã bị đánh mất hoặc trở nên xa lạ, không còn hiện diện trực tiếp với chúng ta vì khoảng cách ngôn ngữ hay văn hóa. Các học giả Khai Sáng dùng những kỹ thuật chuyên biệt cố gắng tái sinh ý nghĩa gốc của bản văn truyền thống qua ba phạm vi sau đây: (1) chân trời tri thức của bản văn cần phải được am hiểu một cách tiệm tiến, cả từng phần và toàn phần của nó; (2) ý nghĩa của các ký hiệu phải được liên kết với nhau qua cách kết nối nhận thức luận với ngôn ngữ học; và (3) sự tinh tế của cá tính đặc thù của tác giả cũng cần phải được cân bằng với vị thế xã hội của bản văn.

Phạm vi thứ nhất liên quan đến chân trời lịch sử và khối óc mà từ đó một bản văn được thành hình. Baruch Spinoza (1632-77) đề nghị rằng muốn am hiểu lịch sử dầy đặc ý nghĩa hoặc các phần khó hiểu của Kinh Thánh, thì người chú giải phải đi theo một “vòng tròn giải thích” từ sự hiểu biết từng phần đến sự hiểu biết của toàn phần, rồi dùng sự am hiểu tổng thể để giải thích ý nghĩa của các phần riêng biệt. Nghiên cứu lịch sử là một quá trình tiệm tiến và dọ dẫm, và mỗi bước tiến hay lùi sẽ gia tăng sự hiểu biết về bản văn. Mặt khác, Giambattista Vico (1668-1744) mở rộng chân trời tri thức của bản văn qua cách lý luận rằng con người là chủ thể tự do, không thể được giải thích (explain) cách trọn vẹn, nhưng cần phải được hiểu (understand). Mọi tư duy luôn bắt nguồn từ một bối cảnh văn hóa nào đó vốn được phát triển qua lịch sử, và nối kết chặt chẽ với ngôn ngữ, tiến hóa qua các giai đoạn thần thoại, thi ca, lý thuyết trừu tượng cho đến ngôn từ mang tính kỹ thuật. Do đó, hiểu bản văn là việc thấu triệt cho tận nguồn về chân trời tri thức của nó. Hiểu lịch sử thì khác với cách hiểu của khoa học tự nhiên. Đối tượng nghiên cứu của sử gia không phải là một thực tại hoàn toàn khách quan, nhưng là thế giới con người - thế giới của chính mình- không có sự phân biệt rõ ràng giữa người nghiên cứu và đối tượng đang được nghiên cứu. Hiểu thế giới là đặt mình vào trong cuộc sống và hoạt động trong một bối cảnh lịch sử.

Phạm vi thứ nhì liên quan đến vấn đề ngôn ngữ và nhận thức. Johann Martin Chladenius (1710-1759) cho rằng để hiểu một sự kiện xa lạ hoặc một hạn từ tối nghĩa, chúng ta nên xét kỹ những cách hiểu ngầm, các tiền thức và tiền thiết vốn đã tạo nên các quan điểm khó hiểu hay tối nghĩa trong bản văn. Chỉ cách đó chúng ta mới có thể đạt đến một sự thông hiểu chân thực và khách quan về chủ đề của bản văn. Tầm quan trọng của ý nghĩa khách quan có thể đạt được bằng cách kết nối thông diễn học với nhận thức luận. Trong lúc đó, Georg Friedrich Meier (1718–77) khai thác tính khách quan từ ký hiệu ngôn ngữ và ký hiệu tự nhiên được dùng trong bản văn. Ý nghĩa của một ký hiệu chính là mối tương quan của chúng với các ký hiệu khác, do đó, các hạn từ khó hiểu luôn có thể được làm sáng tỏ qua mối tương tác của chúng trong phạm vi ngữ nghĩa mà không cần phải nại đến các yếu tố bên ngoài ngôn ngữ. Muốn am hiểu một từ tối nghĩa thì cần phải xét ngữ cảnh của nó, tức là cách nó được dùng trong tương quan với các từ khác. Meier nhận ra sự tương tác giữa thông diễn học và ngôn ngữ học.

Cuối cùng, cả hai yếu tố bối cảnh xã hội của bản văn và tâm lý của tác giả là quan trọng nếu chúng ta muốn phục hồi ý nghĩa của bản văn. Đối với Georg Anton Friedrich Ast (1778-1841), hiểu là khả năng phục hồi lịch sử tính của bản văn, tức là “vị thế” (location) của nó trong tương quan với lịch sử thế giới. Công việc này được thành hình qua sự kết nối phương pháp tổng hợp với phương pháp phân tích. Trong khi “vòng tròn giải thích” của Spinoza chỉ bao gồm các phần và tổng thể của bản văn, thì bây giờ được Ast nới rộng với mối tương tác giữa bản văn với hậu cảnh lịch sử và truyền thống văn hóa của nó. Mặc khác, Christian Wolff (1679-1754) nhắc nhở chúng ta về khía cạnh triết lý của môn tu từ học cổ điển. Tri thức tổng thể của đối tượng phải bao gồm cả tính tương đối của phương pháp dùng để đạt đến kết quả. Chú giải bản văn cổ điển cần chú tâm không chỉ về kỷ thuật chú giải văn hóa chung mà còn cả sự tinh tế về cá tính đặc thù của tác giả nữa. Wolff là học giả tiên khởi quan trọng trong truyền thống thông diễn học lãng mạn sau này.

Nói tóm lại, có nhiều sự khác biệt giữa phương pháp chú giải Kinh Thánh cổ điển với thông diễn học thời Khai Sáng: (1) Về đối tượng của chú giải: thời cổ điển nhắm vào thực tại siêu việt của Thiên Chúa ẩn dấu sau ký hiệu hay ngôn từ của Kinh Thánh, thời Khai Sáng nhắm vào tinh thần cổ điển, văn hóa và cách dùng ngôn ngữ xa lạ. (2) Sức mạnh của việc chú giải cổ điển nằm trong tính đa nghĩa của ngôn từ, nhưng thời Khai Sáng tìm sự thống nhất và chính xác về ý nghĩa của bản văn. (3) Thời cổ điển tìm sử đồng bộ và hài hòa giữa các ý nghĩa mâu thuẫn vì Thiên Chúa là tác giả của bản văn, nhưng thời Khai Sáng muốn bộc lộ sự khác biệt đặc thù của nhiều truyền thống lịch sử (J, E, P, D) của Kinh Thánh. (4) Thời cổ điển khai triển không gian bên trong bản văn (tu từ học) còn thời Khai Sáng tìm hiểu không gian phía sau bản văn (văn hóa cổ xưa, thẩm quyền của tác giả, truyền thống nguồn liệu). Cuối cùng, (5) Thời cổ điển, “chú giải sai” là không nhận ra ý nghĩa thiêng liêng hay chiều kích ân sủng của Lời Chúa; còn thời Khai Sáng “hiểu sai” là không nắm bắt được tinh thần của lịch sử hay văn hóa xa lạ của bản văn.

III. GIẢI THÍCH HỌC LÃNG MẠN

Trong hội thoại “Cratylus, Socrates và Hermogenes”, Plato nêu lên vấn đề tính trung thực của việc thông diễn ngôn ngữ. Thần Hermes, có nhiệm vụ đưa thông tin của Thần Thánh đến loài người, thường phải phát chế ra nhiều cách để truyền đạt ý tưởng của thần minh, nhưng vẫn còn mơ hồ và có thể làm cho con người hiểu lầm hay bị đánh lừa. Do đó, thông diễn vừa là truyền đạt thông tin và vừa là đánh lừa sự thật, và như thế thần Hermnes đóng cả vai của người trung gian và người lừa dối. Như thế thì làm sao chúng ta có thể phân biệt giữa hiểu đúng và hiểu sai? Thế nào là “hiểu” một bản văn, hay có một ý nghĩa chính xác cho bản văn không? Hiểu một diễn từ có liên quan gì đến cách chúng ta hiểu mình hay tiền kiến của mình không? Hiểu là đi qua con đường của ngôn ngữ, nhưng liệu ngôn ngữ có thể vượt qua giới hạn chủ quan của nó? Vấn đề của Plato được hâm nóng qua những cuộc tranh luận của phong trào Cải Cách về độc quyền giải thích Kinh Thánh của Giáo Hội Rôma. Phải mất thời gian để các vấn nạn “hiểu” và “giải thích” thoát ra ngoài phạm vi cục bộ và địa phương để trở thành một phương pháp có hệ thống và cuối cùng đạt đến đỉnh cao với tài năng điêu luyện của Schleiermacher.

Schleiermacher đã khởi đầu một “luận đề ngôn ngữ” cho thông diễn học - nếu con người là tạo vật ngôn ngữ thì thông diễn học luôn nằm trong giới hạn của việc hiểu và giải thích ngôn ngữ hay diễn từ. Ông kết nối triết học tiên nghiệm vốn đòi hỏi các điều kiện tiên nghiệm của tri thức trước khi ta có thể trả lời câu hỏi “chúng ta có thể hiểu gì?” với triết học lãng mạn của F.W.J Schelling, (1775-1854). Từ đó, việc chú giải bắt đầu từ bản văn nhưng phải lội ngược dòng chảy của ngôn ngữ đến các hoạt động tinh thần vốn là điều kiện để tác giả hiểu và sáng tác bản văn. Có hai yếu tố quan trọng trong cách con người dùng ngôn ngữ: văn hóa chung của ngôn ngữ và tính cách đặc thù của tác giả. Vi thế, thông diễn học cần cả hai loại kỹ năng để thủ đắc cả hai khía cạnh ngữ phạm và tâm lý. Kỹ năng cú pháp nhắm vào khía cạnh khách quan của cách dùng ngôn từ của một văn hóa. Kỹ năng tâm lý thông diễn khía cạnh chủ quan, bao gồm tư tưởng và đời sống cá nhân của tác giả. Schleiermacher đặt nặng chú tâm vào lý giải chủ quan, nhưng loại chú giải này không thể bắt đầu nếu không có lý giải khách quan trước tiên. Chúng ta không thể cảm nhận được cá tính đặc thù trong cách dùng ngôn ngữ của tác giả nếu chúng ta không biết trước cách dùng ngôn ngữ chung của văn hóa thời đó. Ước vọng của Schleiermacher là phục hồi chân lý của bản văn qua hiện tượng sáng tác và hiểu, nhưng với lý tưởng “hiểu tác giả hơn tác giả hiểu chính mình”, thì thông diễn học trở thành một loại tâm lý học lãng mạn.

Giải thích học Lãng Mạn: Hiểu tác giả hơn là tác giả hiểu chính mình

Bình thường, đối thoại trực tiếp giữa hai người bình thường thì luôn giả định hai đối tác đang chia sẻ cùng một “thế giới chung”. Hiểu chỉ trở thành vấn đề một khi cảnh vực của thế giới tự nhiên bị gián đoạn hay nhiễu loạn. Như thế, am hiểu các nền văn hóa xa lạ đòi hỏi một sự cởi mở, hướng lòng về đối tượng bao hàm một cái gì đó rất khác với chính mình, vốn chỉ khả thi một khi chúng ta có khả năng kiểm điểm các tiền kiến tiềm tàng trong nhãn quan của mình. Cho dù người chú giải không thể bảo đảm hoàn toàn một sự am tường công bằng và thích ứng với đối tượng đang được chú giải, nhưng ít ra ý thức về khoảng cách giữa các chân trời tri thức khác biệt sẽ giúp người chú giải khỏi rơi vào thói quen chỉ nhìn tác phẩm hay diễn từ xa lạ qua nhãn quan văn hóa của chính mình. Spinoza cho thấy cần phân biệt giữa việc lối hiểu qua đối thoại và lối hiểu qua bản văn lịch sử vốn cần phải đặt nó vào bối cảnh lịch sử để tránh hiểu lầm. Chladenius cũng phân biệt mục tiêu của chú giải là nhận ra ý nghĩa khách quan của một tác phẩm nghệ thuật thay vì ý nghĩa mà chúng ta đem vào tác phẩm.

Nhưng Schleiermacher đi xa hơn khi khẳng định rằng hiểu là nắm bắt chân lý đang bị chôn vùi bên dưới ngôn ngữ của bản văn vốn cần được hồi phục. Ngoài vòng tròn giải thích giữa thành phần và tổng thể của một bản văn (Wolf và Ast), Schleiermacher thêm vào mối tương quan giữa ngôn từ và cá tính đặc thù của tác giả. Nếu bản văn không chỉ là một sự kiện khách quan nhưng còn là một sáng tác nghệ thuật, phản ảnh của một tâm hồn đặc thù và phức tạp, thì sứ mệnh của giải thích là tái tạo tiến trình sáng tác đó. Người chú giải cần lội ngược dòng chảy của ngôn ngữ, từ bản văn đến ý tưởng của tác giả. Hơn nữa, nếu tác giả là một thiên tài thì sẽ không có quy tắc chính xác nào để chú giải cho chính xác. Mỗi cá nhân thể hiện sự sống phổ quát, mang trong mình phần nào đó của tất cả mọi người khác, do đó cần phải có một tiến trình nhập tâm, so sánh sự sống động liên tục giữa bản ngã và bản văn. Cá tính của tác giả có thể được “nắm bắt” qua cách ta làm cho chiều sâu bí ẩn của đối tác trở thành phổ quát và khả tri. Do đó, thông diễn học là một tiến trình lý giải song đôi: biện phân những gì giống nhau (so sánh) và khám phá những gì mang tính đặc thù (nhập tâm).

Như thế, thông diễn học là một nghệ thuật đi vào nội tâm để cảm nhận sự rung động của tâm hồn của tác giả. Không phải lúc nào những bậc thiên tài cũng hiểu tiến trình mà họ đã cho ra đời những tuyệt phẩm, và tác giả cũng không phải là người bình phẩm lý tưởng nhất cho tác phẩm của họ. Hiểu một tác phẩm tức là mang “tiềm thức” của tác giả lên mức độ “ý thức” nơi người chú giải. Người chú giải phải nhận ra mối tương quan giữa sự am hiểu và đối tượng của sự am hiểu, với bản văn là trung gian mà tư tưởng của tác giả đã trở thành ngôn ngữ. Muốn tránh hiểu lầm, người chú giải cần phải dọ dẫm từng bước từ ngôn ngữ đến ý tưởng của tác giả, và xem tác phẩm như là những làn sóng âm hưởng để lại khi tác giả bơi lội trong dòng chảy ngôn ngữ. Đây là hành trình tìm hiểu một cá thể rất khác với ta, một đối tác độc nhất vô nhị, không dễ gì mà hoàn toàn tránh khỏi sự hiểu lầm. Tính cá biệt của tác giả không hẳn là ẩn khuất, mà có thể được nhận thức qua sự so sánh các sự kiện khách thể như thể văn, giọng nói, hoặc cách dùng đặc thù của tác giả, với cách diễn đạt của các tác giả khác. Không có một quy luật cứng rắn nào cho việc so sánh này. Như thế, chú giải là một tiến trình ước đoán liên tục từ hiểu đến hiểu đúng hơn về ý nghĩa của tác phẩm, với mục tiêu chủ yếu là tránh hiểu lầm.

Thần Học Giải Thích

Quan điểm chú giải của Schleiermacher đã tạo nên một loại thần học giải thích, với mục đích là tìm hiểu kinh nghiệm tôn giáo của tác giả hay đấng sáng lập tôn giáo. Ví dụ, kinh nghiệm nào của Đức Giêsu đã thôi thúc Ngài theo đuổi sứ mạng rao giảng Nước Trời? Trải nghiệm tôn giáo nào đã làm cho Phaolô nhấn mạnh đến khía cạnh “công chính hóa” trong sáng tác thần học của ngài? Schleiermacher cho rằng các tín khoản cũng là kết quả của trải nghiệm tôn giáo. Trải nghiệm về Thiên Chúa đặt con người vào một tâm thức lệ thuộc tuyệt đối, đón nhận mọi sự như là cho nhưng không. Con người cảm nghiệm sự giới hạn triệt để của mình trước một vũ trụ vô biên và Thiên Chúa là thực tại nhân hậu tối cao, ngoài tầm nắm bắt của tri thức. Cảm nghiệm tôn giáo là nền tảng căn bản cho các công thức tín khoản hay ngôn ngữ của tín điều. Do đó, nổ lực diễn đạt trải nghiệm về sự lệ thuộc sâu sắc qua ngôn ngữ sẽ là yếu tố định hình cho thần học tín lý.

Ngoài ra, thần học giải thích còn giới thiệu vào suy tư thần học “học thuyết tiếp nhận” (reception theory) vốn cho rằng, chân lý của bản văn nằm trong cách cộng đoàn đức tin đón nhận và hiểu ý nghĩa của bản văn. Ý nghĩa của Tin Mừng thì không phải tất định và chung kết, nhưng luôn mở rộng và mang tính thông diễn, mỗi thế hệ Kitô hữu mới sẽ khám phá những chân lý mới dựa trên trải nghiệm sống Lời Chúa của mình. Từ quan điểm này, các bản Tin Mừng khác nhau (Mc, Mt, Lk, Jn) là những vòng tròn giải thích tới lui giữa tác phẩm (Cựu Ước, Biến cố Kitô) và trải nghiệm của mỗi cộng đồng chú giải (Kitô hữu) trong bối cảnh xã hội của mình. Tính cách thông diễn và sự đa dạng của các bản Tin Mừng làm cho sự am hiểu về biến cố Kitô càng phong phú hơn nữa. Sứ mệnh của thần học chú giải là nắm bắt cảm nghiệm tôn giáo đứng sau các công thức tín lý. Thần học giải thích trong thế kỷ 20 có khuynh hướng nhấn mạnh về trải nghiệm tiêu cực về cách sống Lời Chúa trong bối cảnh xã hội, môi trường chính trị và kinh tế hiện nay.

Phương pháp chú giải lãng mạn của Schleiermacher không phải là hoàn hảo. Liệu kỹ thuật nhập tâm có thể lột trần mọi động lực thầm kín hay ẩn khuất của tác giả hay bản văn không? Liệu độc giả có thể tránh nguy cơ đánh đồng trải nghiệm của mình với kinh nghiệm của tác giả trong tiến trình nhập tâm không? Schleiermacher đặt nặng về cá tính của tác giả và xem nhẹ chủ đề của bản văn, nhưng văn chương truyền khẩu như ca dao và tục ngữ cho dù thiếu tác giả cụ thể nhưng ý nghĩa không kém phong phú và sắc xảo. Liệu khả năng sáng tạo của bản văn có thật sự phản ánh một tâm hồn tự do hay lành mạnh đứng sau đó không? Chúng ta có thật sự hiểu tác giả “hơn” tác giả hiểu chính mình không? hay chỉ hiểu “khác” tác giả thôi? Triết hậu hiện đại nhắc nhở chúng ta là tác phẩm có sự sống riêng của nó một khi thoát khỏi ngòi bút của tác giả, và ý nghĩa của bản văn không phải nhất thiết phải là xúc tích nhưng thường xuyên hơn là bị giới hạn bởi sự bất định của ngôn ngữ. Cuối cùng, sự liên tục chú giải của các thế hệ sau mới là chứng từ hùng hồn nhất cho tính phong phú của ý nghĩa của bản văn chứ không phải vì tác giả là một “thiên tài”. Thiên tài mà không có người khám phá thì cũng chẳng phải là thiên tài. “Oedipus” cũng chẳng là huyền thoại nếu Sigmund Freud đã không giải thích nó thành “hội chứng Oedipus”. Vì thế, chú giải bản văn không nhất thiết phải tái tạo cả tiến trình tư tưởng trở thành ngôn ngữ nơi tác giả. Bản văn tự nó thể hiện một hình thức sự sống mà không cần phải áp đặt lên nó các tiền kiến hay ý định có sẳn. Chúng ta có thể hiểu và tiếp cận tác phẩm và tác giả như một hiện tượng hay một thể thức sống trong thế giới con người. (Wittgenstein).

 

Tài liệu tham khảo:

Joseph Tân Nguyễn, Thông Diễn Học. NXB Đồng Nai, 2021

F.D.E. Schleiermacher. Hermeneutics. The Handwritten Manuscript. Heinz Kimmerle, ed. Missoula Scholar Press, 1977.

Every Dulles. “Hermeneutical Theology”, Communio 6 (Spring 1979).

Hans-George Gadamer. Philosophical Hermeneutics. David E. Linge dịch. University of California Press, 1976,.

Chia sẻ