Thông diễn học: Chú giải Tân Ước
Kitô giáo công nhận Kinh Thánh là Lời Chúa được mặc khải qua lề luật và ngôn sứ trong Cựu Ước. Nhưng chỉ vài thập niên sau biến cố Kitô đã có thêm một số bản “Tin Mừng” và các “Thư” về sứ vụ của Phaolô và các Tông phụ. Ở thế kỷ thứ II, khái niệm “Tân Ước” vẫn còn linh động. Đối với những Kitô hữu gốc Do Thái, Tân Ước là sự ứng nghiệm của truyền thống lề luật và ngôn sứ trong Kinh Thánh. Nhưng đối với các Kitô hữu gốc Hy-lạp, vốn không mang cùng tâm thức lịch sử về xuất hành, vượt qua, sa mạc, hay vào đất hứa thì sự ứng nghiệm của các bản văn Tân Ước trở thành vô nghĩa cho bối cảnh đức tin của họ. Giáo Hội phải đối phó với những đợt tấn công và bắt đạo từ bên ngoài cùng với các chia rẽ nội bộ về tín lý và phụng tự. Sau khi Jêrusalem bị tàn phá, Kitô hữu bị loại ra khỏi các hội đường, nhưng họ vẫn xem lời hứa cứu rỗi của Thiên Chúa cho dân Do Thái như lời hứa cứu rỗi của họ. Họ muốn giữ sự liên tục của mặc khải giữa hai lời Giao Uớc và nóng lòng loan báo cho thế giới về một thần khí đang phát sinh và sống động giữa họ. Nhưng sự say mê cuồng tín và cách chú giải bí ẩn của phái Ngộ giáo thì không phù hợp với tính “công giáo”.
Với Irenaeus, việc chú giải Kinh Thánh không chỉ dùng lý trí để phán đoán, nhưng còn nại đến thẩm quyền. Giáo Hội có thẩm quyền ngoại tại đối với Kinh Thánh, vì Giáo Hội không tạo nên Tin Mừng mà chỉ mang Tin Mừng vào sự tồn tại của nó như một bản văn. Nhưng Giáo Hội cũng có thẩm quyền nội tại vì Tin Mừng là cuốn sách của cách sống đức tin Giáo Hội. Do đó, thẩm quyền và tính tông truyền của Giáo Hội có vai trò tất yếu trong mọi chú giải Kinh Thánh. Nhiều cuộc tranh luận về cách chú giải Kinh Thánh qua thời gian kết tụ thành những trường phái chú giải. Chúng ta sẽ lược qua ba khuynh hướng chính yếu về chú giải Kinh Thánh của trường phái Alexandria, trường phái Antioch, quan điểm chú giải theo thẩm quyền, và sẽ kết thúc với học thuyết chú giải của Augustinô.
Trường Phái Alexandria: Philo, Clement, Origen
Trường phái Alexandria mang nặng ảnh hưởng của triết lý Plato, nhắm vào ý nghĩa siêu việt của sự kiện. Họ dùng phương pháp ẩn dụ (allegory) để giải thích bản văn theo nghĩa biểu tượng, thay vì chỉ nghĩa nguyên văn hay nghĩa lịch sử. Hai đại biểu của trường phái này, Origen và Clement giải thích ba cấp độ chú giải Kinh Thánh: nghĩa nguyên văn, nghĩa tinh thần, nghĩa thần bí. Trường phái này có khuynh hướng ngộ giáo, xem vật chất là nguồn gốc của sự dữ vì thế muốn tìm ý nghĩa thiêng liêng và mọi biến cố lịch sử được hiểu như là những ẩn dụ về thực tại vĩnh hằng. Lối chú giải ẩn dụ giúp giải thích những đoạn Kinh Thánh khó hiểu hoặc khó chấp nhận được. Nhưng nó cũng có khuynh hướng tạo nên loại “linh đạo tách biệt” khỏi các biến cố lịch sử và hành động của Thiên Chúa trong Kinh Thánh. Truyền thống lịch sử và bối cảnh xã hội của bản văn là những vỏ bọc không cần thiết một khi ý nghĩa của bản văn được hiểu.
Trường phái Alexandria gồm những nhà trí thức quen thuộc với văn hóa Ai-Cập, triết Hy lạp, Kinh Thánh, và linh đạo của các phái ngộ giáo như Manichaean. Khởi đầu là Philo, người Do Thái dùng phương pháp chú giải ẩn dụ của triết học Stoic để giải thích Kinh Thánh qua hai ý nghĩa thể lý và luân lý. Ví dụ cây đèn bảy ngọn của người Do Thái có thể là ẩn dụ cho bảy hành tinh (thể lý), hoặc Abraham và Sarah là ẩn dụ cho Lý Trí và Nhân Đức (luân lý). Chú giải luân lý giải thích theo trách nhiệm của con người, như trong cuộc cám dỗ trong Sách Sáng Thế, Satan là nhục dục, Evà là thân xác, và Adam là lý trí. Abraham đại diện cho nhân đức. Sách Nhã Ca đại diện cho lòng khao khát cho Thiên Chúa. Phương pháp ẩn dụ giúp giải thích những sự kiện vô nghĩa, khó hiểu trong Kinh Thánh vốn mâu thuẫn với kinh nghiệm thường ngày. Ví dụ, tên những cây trong vườn Địa Đàng, cây Sự Sống, hay cây Biết Lành Biết Dữ, thì không giống các tên chúng ta quen thuộc tí nào. Hoặc thật là vô lý khi gọi ba “ngày” đầu trong tuần tạo dựng nếu chưa có mặt trời hay mặt trăng. Mặt khác, Kinh Thánh hay Torah đối với người Do Thái là lời của Thiên Chúa, và tất cả chữ hay dấu chấm dấu phết đều mang ý nghĩa thâm sâu. Vì thế, muốn biện hộ cho đức tin vào Thiên Chúa, Philo phải chứng minh Kinh Thánh hàm chứa các ẩn dụ về Kitô giáo bằng các phương pháp tu từ học, điển tích học hay số học của Stoic.
Philo lý luận rằng những ý tưởng Thiên Chúa mặc khải cho Do Thái giáo, nếu được chú giải cách chính chắn thì không khác gì với cách Người mặc khải cho dân Hy-lạp. Chúng ta cần loại bớt khuynh hướng nhân cách hóa Thiên Chúa như trong Kinh Thánh, và nên hiểu Thượng Đế như là ý niệm của sự thiện hay hoàn hảo theo như quan điểm cởi mở của triết học Hy-La. Chỉ qua phương pháp chú giải ẩn dụ chúng ta mới chạm đến thực tại thánh thiêng và phổ quát ẩn dấu bên dưới ngôn ngữ của Kinh Thánh mà Thiên Chúa muốn dạy chúng ta. Phương pháp này được các nhóm ngộ giáo đón nhận rất tích cực, và dùng nó để tách biệt Thiên Chúa của Cựu Ước ra khỏi Thiên Chúa của Tân Ước, và xem việc tạo dựng vũ trụ và lịch sử dân tộc Do Thái là một sự sai lầm trầm trọng. Con người chìm đắm trong bóng tối tội lỗi và chỉ được cứu rỗi do tri thức bí mật đến từ các tia sáng thần linh. Các nhóm ngộ giác tách biệt Đức Giêsu ra khỏi Giáo Hội, và tự cho họ là thánh thiêng hơn các tín hữu khác.
Nhân vật thứ hai của trường phái Alexandria, Clement, là người Kitô giáo đầu tiên biện minh và giải thích cho phương pháp ẩn dụ. Clement cho rằng tất cả Kinh Thánh được viết bằng ngôn ngữ biểu tượng, ký hiệu, và hình ảnh bí ẩn để chuyễn tải ý nghĩa, không khác gì cách Môisen, Plato, dân Hy-lạp hay dân Ai Cập đã làm. Clement cho rằng mọi ngôn từ trong Kinh Thánh đều có ý nghĩa vốn có thể được khai triển qua năm cách chú giải sau đây: (1) nghĩa lịch sử, (2) nghĩa tín lý, (3) nghĩa ngôn sứ và hình luận, (4) nghĩa triết lý bao gồm cà vũ trụ và tâm linh, và (5) nghĩa thần bí. Những gì Cựu Ước nói đến Logos thì cuối cùng đã được ánh sáng Đức Kitô mặc khải trọn vẹn. Một khi đón nhận ánh sáng đó, người tín hữu sẽ có tri thức về các chân lý cao siêu hơn. Đây cũng là một hình thức ngộ giáo nhưng không tách biệt mình ra khỏi Giáo Hội, và vẫn duy trì tính hiệp nhất giữa mặc khải Cựu Ước và mặc khải Tân Ước. Clement dùng phương pháp chú giải ẩn dụ của Philo, nhấn mạnh ít về khía cạnh thiêng liêng của Kinh Thánh nhưng cũng đã mở rộng tầm nhìn để bao gồm các tôn giáo và văn hóa khác. Tuy nhiên Clement không phải là một thần học gia có khả năng khai triển các tín điều đức tin. Đó là sứ mệnh dành cho Origen.
Origen, qua công trình sáng tác bộ sách năm cuốn mang chủ đề “De Principiis”, cho thấy khả năng sáng tạo và áp dụng phương pháp chú giải ẩn dụ vào thần học tín lý. Origen là học giả đầu tiên của trường phái Alexandria chính thức mở trường dạy thần học trên danh nghĩa Giáo Hội. Trong cuốn thứ tư, ông chứng minh tính chân thực của linh ứng và tính siêu nhiên của Giáo Hội qua sự kiện phong trào Kitô giáo vẫn tiếp tục tồn tại đúng như Đức Kitô đã tiên báo. Hơn nữa, biến cố Kitô đã soi sáng ý nghĩa của lời các ngôn sứ và tính thiêng liêng của luật Môisen. Sự hoàn thành của ngôn sứ chính là chứng cớ cho tính linh ứng của nó. Mục đích của Kinh Thánh là mặc khải các “chân lý tri thức” chứ không phải việc làm của Thiên Chúa trong lịch sử. Nhiều khi, lịch sử có thể che lấp chân lý của Kinh Thánh nếu ta giải thích theo nghĩa nguyên văn của những gì được ghi lại, ví dụ, như khi Kinh Thánh nói về Thiên Chúa “rảo bộ” trong vườn Địa Đàng, “trồng” một vườn cây, hay Cain “đi ra” khỏi “mặt” của Thiên Chúa. Ngoài ra cũng có vô số mâu thuẫn về lề luật giữa Cựu Ước và Tân Ước mà phương pháp chú giải lịch sử không thể giải quyết được vì chân lý của chúng không nằm trong tính vật chất của chữ viết. Origen khẳng định, không phải tất cả ý nghĩa nguyên văn của Kinh Thánh là hợp lý, nhưng tất cả Kinh Thánh đều mang ý nghĩa thiêng liêng.
Origen nhấn mạnh rằng mầu nhiệm tối hậu thì được chứa đựng trong Kinh Thánh qua ngôn ngữ biểu tượng. Nhưng muốn chú giải chúng thì cần phải có ân sủng siêu nhiên. Ví dụ, ba phần của cơ cấu con người, “thần khí, linh hồn và thân xác” (1 Thess 5:23) theo Phaolô thì có thể được hiểu là ba nghĩa nguyên văn, luân lý và thiêng liêng/thần bí của Kinh Thánh. Lợi ích của lối chú giải ẩn dụ là giúp cho đức tin của những giáo dân đơn sơ khỏi phải chấp nhận tất cả chi tiết mâu thuẫn của Kinh Thánh theo nghĩa nguyên văn. Nó giúp những tín hữu thiếu hiểu biết về dụ ngôn, biểu tượng và nhận ra chân lý của Kinh Thánh. Trong thực hành, Origen không quan tâm về qui phạm của đức tin cho bằng Irenaeus. Tuy cách Origen dùng sáng kiến và trực giác để nhận diện chân lý tiềm tàng trong ẩn dụ có phần chủ quan, nhưng nó đã tạo nền tảng lý tính cho đức tin Kitô giáo trước thời Trung Cổ. Phương pháp thì không quan trọng cho bằng tinh thần dấn thân của Origen muốn tìm mẫu số chung cho đức tin Kitô giáo và triết Hy-lạp.
Trường phái Antioch: Theodore, Chrisostom, Jerome
Trường phái Antioch muốn trở về với nguyên tắc “ứng nghiệm” lời các tiên tri thay vì dùng ẩn dụ. Nhưng họ mở rộng ý nghĩa của “ứng nghiệm” (sự kiện hiện tại minh chứng cho lời tiên tri quá khứ là đúng) thành nghĩa ý nghĩa “tiên trưng” (biến cố quá khứ soi sáng ý nghĩa của hiện tại). Không có chìa khóa bí ẩn hay ý nghĩa sâu xa nào hàm chứa trong Kinh Thánh, mà chỉ có những sự kiện lịch sử về Đức Kitô trong Tân Ước vốn đã được tiên trưng hay báo trước qua các biến cố trong Cựu Ước. Những gì xảy ra nơi Đức Giêsu là sự hiện diện của hai bản tính khác biệt (thần tính và nhân tính) và hai nhân vị của Cựu Ước và Tân Ước. Đức Kitô là hiện thân của Đấng Thiên Sai đã được tiên tri trước đây. Lối chú giải này muốn bảo tồn ý nghĩa của lịch sử Do Thái cùng với chiếc áo mới mà Kitô giáo đã mặc lên Do Thái giáo. Qua lối chú giải này, chúng ta có thể nhận ra các mầm móng của chủ thuyết dị giáo “Nestorian”.
Bắt đầu từ cuối thế kỷ thứ II cộng đoàn Do Thái ở Antioch trở nên phát đạt, qui tụ nhiều chuyên gia chú giải Kinh Thánh. Ba nhân vật nổi tiếng nhất là Theodore gốc Mopsuestia, John Chrisostom và Jerome. Điểm chung của trường phái này là họ giải thích Thánh Phaolô không dùng các “ẩn dụ” như là biểu tượng của chân lý hoặc cắt bỏ lịch sử Kinh Thánh như trường phái Alexandria thường dùng. Thánh Phaolô tin vào thực tại của Kinh Thánh và dùng chúng như ví dụ để minh họa quan điểm Kitô học của ngài trong Tân Ước. Nếu Adam không là Adam thật sự, không có mặt trong địa đàng, nếu con rắn không phải là rắn thật, và các sự cố này không có thật, thì sự kiện Adam bất tuân lời Chúa, sự chết xâm nhập vào thế gian, và ý ơn cứu độ sẽ trở thành vô nghĩa. Do đó, cách chú giải ẩn dụ của Phaolô thì dẫn đến chân lý và đức tin, còn cách chú giải phúng dụ của Origen chỉ đưa đến sự sai lầm và bất kính. Nhóm Alexandria chỉ răn đe và khuyên dạy kẻ khác, nhưng chính họ thì không trung thành với bối cảnh lịch sử vốn tạo nên ý định của các bản văn. Cần phải hiểu đúng là khi Tân Ước trích dẫn Cựu Ước, như Đức Giêsu thốt lên trên thánh giá (Thánh Vịnh 22:5), hay Gioan nhắc lại hình ảnh Môisen dương cao rắn đồng (Gioan 3:14), thì Tân Ước nói lên sự tương đồng giữa hai biến cố lịch sử, cho dù cách áp dụng thì khác nhau.
Như thế, trường phái Antioch muốn bảo tồn lịch sử và bối cảnh từ nguyên của bản văn. Cách khẳng định rằng thực tại của Kinh Thánh thì nằm “bên sau” hoặc “bên dưới” bản văn của trường phái này thì gần với học triết học hữu thể của Aristotle. Nếu tác giả của Kinh Thánh đã chọn ngôn ngữ, ký hiệu, biểu tượng và dụ ngôn để tạo nên ý nghĩa cho thế giới họ đang sống và trải nghiệm, thì chúng ta không thể cắt bỏ các thực tại đó. Người đọc cần ý thức về giới hạn và phạm vi “ngữ nghĩa” và “ý vị” của bản văn. Bản văn không chỉ mô tả sự kiện lịch sử mà còn cho thấy nhãn quan tri thức của họ về các sự kiện đó. Lời các ngôn sứ không chỉ tiên đoán các sự kiện lịch sử, mà còn cho thấy nguyên tắc Kitô luận của họ. Chrysostom lý giải rằng bất cứ nơi nào Kinh Thánh dùng ẩn dụ, thì cũng cung cấp lời giải thích cho ẩn dụ. Vì thế, người chú giải cần bảo vệ tính vẹn toàn của Kinh Thánh, thay vì theo đuổi những ý tưởng bí ẩn hay hoang đường như phái Ngộ giáo.
Trường phái Antioch đã giới thiệu một “học thuyết” về sự giới hạn của tính linh ứng của bản văn. Theo Theodore Mopsuestia, nhà chú giải quan trọng nhất của trường phái này, các bản văn nào trong Kinh Thánh mà không chứa đựng các yếu tố ngôn sứ hoặc lịch sử cứu độ thì phải bị loại ra khỏi “quy điển”, như sách Diễn Ca, Gióp, và cả Thư Giacôbê khi trích dẫn Gióp (James 5:11). Cũng vậy, Tân Ước chưa hoàn toàn khẳng định thần tính của Đức Kitô vì Thánh Thần chưa ngự xuống các Tông Đồ cho đến lễ Hiện Xuống, nhưng chỉ hứa ban ở đoạn cuối của Tin Mừng Gioan (Jn 20:22). Tin Mừng cũng chỉ gọi Người là “Con Thiên Chúa,” một từ thường dùng nói đến các bậc thánh thiện hay sứ giả của Thiên Chúa. Lời Thomas thốt lên, “Lạy Chúa, lạy Chúa tôi” (John 20:28) chỉ là phản ứng ngạc nhiên và ca tụng Thiên Chúa vì phép lạ xảy ra chứ không phải là một tuyên xưng đức tin. “Học thuyết” lịch sử và ngôn sứ quá hạn hẹp của Theodore được các đệ tử thuộc nhóm dị giáo Nestorian khai triển, và cuối cùng tác phẩm của ông bị thiêu hủy tại Công Đồng Constantinople II (553).
John Chrysostom, Tổng Giám Mục thành Constantinope, không loại bỏ ẩn dụ, nhưng giải thích khái niệm “linh ứng” trong học thuyết chú giải một cách hệ thống hơn. Các hình ảnh cho ta “tên gọi” của chân lý sẽ đến, nhưng một khi chân lý xuất hiện thì “tên gọi” không cần nữa. Như một họa sĩ cần phát họa các đường nét cho hình ảnh của vị Vua trước khi tô màu vào đó. Cho dù hình vẽ đó có đẹp hay tài tình đáng phục bao nhiêu đi nữa thì khi Vua thật sự xuất hiện, chúng ta chỉ phục bái nhà Vua chứ không phải bái bức hình. Như thế, cách John Chrysostom kết nối “giả thuyết” lịch sử và ngôn sứ của trường phái Antioch với lối chú giải tiên trưng (typology) đã khai triển ý nghĩa loại suy của ngôn ngữ nhưng không đánh mất lịch sử tính của nó.
Kế tiếp, Jerome đã cho thấy tác động của của trường phái Antioch trên công trình chuyển dịch và chú giải Kinh Thánh “Vulgate”. Khởi đầu Jerome chỉ dùng phương pháp “ẩn dụ” của Origen, nhưng qua cách bình phẩm lịch sử của Apollinaris gốc Laodicea, ngài đã chuyển hướng và nhận ra rằng muốn có sự hiểu biết sâu sắc của Kinh Thánh thì cần chú tâm đến nghĩa thiêng liêng (spiritualist intelligentia) dựa trên lịch sử của văn bản. Ý nghĩa thiêng liêng thì vượt trên ý nghĩa thể lý hay thân xác nhưng không loại trừ nó. Như thế, Jerome đã được đưa phương pháp bình phẩm văn bản vào việc chú giải Kinh Thánh thời Trung Cổ vốn sẽ trở nên rất thông dụng cho thần học Kinh Viện sau này.
Hậu quả là có những “cẩm nang” chú giải Kinh Thánh bắt đầu xuất hiện. Adrian xuất bản cuốn “Introduction to the Divine Scripture” (425), liệt kê một số cụm từ hay thành ngữ giúp nhận diện hình thức của các bản văn ngôn sứ và lịch sử. Junilius Africanus qua cuốn “Regulative Institute of Divine Law” (550) giải thích phương pháp hình luận của Theodore qua các phạm trù triết lý Aristotle. Cho dù lối chú giải Kinh Thánh của trường phái Antioch còn đơn sơ và thiếu phê phán, nhưng nói chung, sự nhấn mạnh vào bình phẩm văn bản và lịch sử đã để lại ảnh hưởng sâu rộng lên thần học Kitô giáo, nhất là trong thời Trung Cổ và Kinh Viện. Cả hai trường phái Alexandria và Antioch cho thấy các điều kiện thiết yếu của suy tư thần học. Nếu thần học là đức tin tìm kiếm sự hiểu biết về mặc khải, thì vấn đề chính yếu không chỉ là tìm ý nghĩa của bản văn mà cần phải thấu hiểu các khung phạm trù của lịch sử và bối cảnh xuất xứ của bản văn nữa.
Chú giải theo thẩm quyền: Irenaeus, Tertullian, Vincent
Trong thế kỷ II, lối chú giải “bí ẩn” của Marcion và Valentius đã mang lại nhiều sự hoang mang nơi các cộng đoán Kitô hữu, đến nổi Tertullian phải khuyên bảo giáo dân không nên dùng Kinh Thánh khi tranh luận với các nhóm ngộ giáo, vì cơ may thắng thế thì rất mong manh. Methodius đề nghị nên chú giải theo dòng “tư tưởng của Kinh Thánh”, nhưng đa số các nhà chú giải đương thời nhận thấy cần phải có một thẩm quyền bên ngoài để bảo đảm cho ý nghĩa chính thống của Kinh Thánh. Đó là thẩm quyền của Giáo Hội hay “qui phạm của đức tin”, nơi mà Kinh Thánh được lưu truyền qua các giáo huấn và sự kế vị liên tục của các tông đồ. Irenaeus lý giải rằng, “qui phạm đức tin” là lời chứng rõ ràng về mặc khải của Thiên Chúa đã được lưu truyền một cách chính thức và không hề hoen ố. Bất cứ ai thuộc về Giáo Hội đều một cách tự nhiên muốn biết cách suy tư của Giáo Hội khi chú giải Kinh Thánh. Đây là lối suy tư dựa trên sự đồng thuận và nhất trí vốn đã có từ thời các thánh Tông Đồ, và Phaolô cũng đã dùng nó khi nói về những cách chú giải “hợp lệ” trong Giáo Hội (Tim 1:8).
Tertullian, một luật sư xuất thân từ Carthage, qua sáng tác “De praescriptione Haereticorum” (200), đã dùng luật pháp của Rome để minh chứng rằng các nhóm dị giáo không có quyền sở hữu hoặc tham dự các buổi tranh luận về Kinh Thánh. Ông lên án các nhóm này đã gây nên ấn tượng tiêu cực trên các tín hữu, gieo sự hoài nghi trên người có đức tin mạnh, lôi kéo kẻ yếu lòng, và làm cho những người đang lo lắng thêm hoang mang. Cần phải thẳng tay trừng trị các nhóm dị giáo này vì chúng đang băng hoại đời sống Giáo Hội. Kinh Thánh thuộc về Giáo Hội, chỉ là nơi mà đức tin chân chính mà cách chú giải trung thực và tính tông truyền của thẩm quyền Giáo hội sẽ được tìm thấy. Là một luật sư, Tertullian đưa ra ba lý do để biện hộ cho quan điểm của mình: (1) Đức Kitô đến để rao giảng chân lý được mặc khải về Thiên Chúa, (2) Đức Giêsu trao phó chân lý này cho các tông đồ, và (3) các tông đồ truyền lại mặc khải đó cho Giáo Hội mà các ngài đã thiết lập. Tính hợp lý của thẩm quyến dựa trên sự hiệp nhất của đức tin tông đồ mà các nhóm dị giáo không có.
Hơn nữa tính “tông truyền” đã tồn tại trước khi các hạt giống cỏ xấu bị kẻ gian gieo vào ruộng lúa của ông chủ. Kinh Thánh thuộc về Giáo Hội trước khi nhóm dị giáo trích dẫn và biện minh cho mục đích của họ. Tertullian tố cáo các nhóm của Marcion, Valentius, và Apelles đã “chặt trộm cây”, “hái trộm quả”, “chuyển dòng nước” trong vườn của Giáo Hội mà họ đã không ra công vun trồng và không có quyền sở hữu. Cũng như Irenaeus, Tertullian dùng cả phương pháp chú giải ẩn dụ (Alexandria) lẫn tiên trưng (Antioch), miễn sao cho phù hợp và duy trì sự hiệp nhất với thẩm quyền Giáo Hội. Tertullian chống lại cách dùng triết học của Origen và cho rằng triết học là mẹ của mọi tư tưởng dị giáo. Kinh Thánh có chiều sâu và chiều rộng thiêng liêng của nó, nếu không để ý, rất có thể người chú giải đang rơi vào tình trạng xây một tháp canh lở dở (Lc 14:28). Cách chú giải theo thẩm quyền cần bảo đảm chiều kích ý nghĩa thiêng liêng của Kinh Thánh.
Vấn đề thẩm quyền của Giáo Hội được khai triển rộng hơn qua tác phẩm “Commonitorium” (434) của Vincent, một đan sĩ ở Lerinum. Vincent cho rằng tính Công giáo của đức tin được đặt trên nền tảng chỉ có một Tân Ước và được lưu truyền qua Giáo Hội, không thể bị chia cắt ra từng mảng bởi các cách chú giải lạc giáo. Tôn giáo thì cũng như một thân thể, tuy có sự phát triển và trưởng thành, nhưng vẫn là một thân thể trong sự hiệp nhất của nó. Nếu có sự hoài nghi về chú giải Kinh Thánh thì hãy xin ý kiến của những bậc khôn ngoan và hữu trách trong Giáo Hội. Như thế, Vincent đã tổng kết mục tiêu của phương pháp chú giải dựa trên thẩm quyền vốn đến từ tính phổ quát và tính cộng đồng của mặc khải. Mặc khải Thiên Chúa là lời mời gọi cho tất cả mọi người có thiện tâm muốn tin. Do đó, cần mở rộng tầm nhìn về thẩm quyền Giáo Hội từ gốc độ nhập thể và cánh chung, trong khi nhận định các phương pháp chú giải Kinh Thánh nào cho phù hợp cho sứ mạng của mình.
Nguyên tắc chú giải Kinh Thánh của Augustinô
Các trường phái chú giải Kinh Thánh trong các thế kỷ đầu đã giúp cho tín lý Kitô giáo giảm bớt được tính thần thoại, nhưng chúng cũng gây ra sự bất đồng về một số chủ đề thần học nền tảng. Vai trò của các Công Đồng trở nên tất yếu trong việc giải quyết các tranh chấp và thiết lập tính chính thống của thần học. Từ Nicea I (325) cho đến Nicea II (787), tổng cộng có bảy Công Đồng đã đóng góp vào việc thiết lập các qui phạm cho sự thống nhất của tín lý Kitô giáo. Qua các Công Đồng, vai trỏ của các Giáo phụ bắt đầu trở thành quan trọng hơn, tiêu biểu là Thánh Augustinô vốn là nhân vật đầu tiên thiết lập tính phổ quát của thông diễn học. Augustinô khai triển mối tương quan giữa ngôn ngữ và việc thông diễn và lý luận rằng việc chú giải Kinh Thánh đòi hỏi mức độ am hiểu mang tính hiện sinh nơi chính bản thân của người chú giải. Nếu ngôn ngữ là ký hiệu ám chỉ hay hướng về thực tại đứng sau chúng thì vấn đề chú giải chính là hành trình đi từ ký hiệu (verba) đến mức độ của thực tại (res).. Con mắt thiêng liêng của Augustỉn đã được mở ra với lời giải thích của Ambrose, trích dẫn Thánh Phaolô, “Chữ viết thì giết chết, nhưng Thần Khí thì mang lại sự sống” (2 Cor 3:6). Từ đó Augustinô khai triển một học thuyết chú giải dựa trên quan điểm của ngài về ngôn ngữ, nhu cầu thanh luyện tâm hồn, và thẩm quyền. Tri thức về Thiên Chúa thì vượt trên kinh nghiệm cá nhân, do đó chúng ta cần thẩm quyền Giáo Hội, vốn đại diện cho kinh nghiệm và sự khôn ngoan. Ai chú giải Kinh Thánh mà không làm gia tăng “lòng mến Chúa và yêu tha nhân” thì chưa thật sự hiểu Kinh Thánh. Thánh Augustinô đã cung cấp một học thuyết sâu sắc và có hệ thống về tính chính thống của Giáo Hội trong việc chú giải Kinh Thánh.
Trong khi thuyết Tân Plato khai thác lộ trình trở về với thần linh nơi vũ trụ bên ngoài thì Augustinô nhấn mạnh vào hành trình nội tâm - vào bên trong để nhận ra Ánh Sáng thần linh đang chiếu tỏa trên lý trí con người. Augustinô xem thần học như là sự khôn ngoan, và phân biệt giữa đối tượng của khôn ngoan (sapientia) là thực tại vĩnh cữu, và đối tượng của tri thức (scientia) là cách trí tuệ hiểu biết về những gì trông thấy được và biến dịch.Để có thể biết về thực tại vĩnh cửu mà Kinh Thánh nói đến, thì thiết yếu cần phải có một tinh thần hướng thượng và một tâm hồn thanh luyện. Augustinô đề nghị một lộ trình bảy giai đoạn để tiến đến mức độ thanh luyện, đó là: (1) lòng kính sợ Thiên Chúa để giúp con người tiến đến chỗ nhận ra thánh ý của Ngài; (2) lòng sùng mộ để nhờ đó con người biết chú tâm lắng nghe Lời Chúa với tất cả thái độ thần phục; (3) một kiến thức vững vàng biết bám chặt vào lòng bác ái, tức là mến Chúa yêu người, vì toàn bộ Kinh Thánh được tóm gọn trong tình bác ái ấy; (4) ơn dũng cảm để biết chịu đói chịu khát đi tìm công chính; (5) lòng nhân ái để thực thi tình yêu thương đối với tha nhân, và để nên hoàn thiện trong tình yêu thương ấy; (6) tâm hồn thanh luyện cho khỏi những dính bén thế tục; và (7) thái độ khôn ngoan rút tỉa từ việc thực hành chiêm niệm về Thiên Chúa. Trong trường hợp hoài nghi về nghĩa của bản văn thì hãy chú giải làm sao để Lời Chúa gia tăng lòng mến Chúa yêu tha nhân nơi chúng ta.
Ngoài yếu tố hoán cải nội tâm như điều kiện để thủ đắc chân lý và ý nghĩa thiêng liêng cho ơn cứu rỗi, còn có yếu tố ngôn ngữ và cách con người tìm kiếm tri thức. Augustinô giải thích tri thức đến từ ba nguồn mạch: kinh nghiệm, uy tín, và ký hiệu. Tri thức rút tỉa từ kinh nghiệm khởi đầu từ những thực tại trong thế giới hữu hình để đạt đến thế giới của những thực tại lý tính (intelligible) và nguyên lý đầu tiên của vạn vật. Qua uy tín của người khác, chúng ta có thể mở rộng sự hiểu biết về đức tin. Nhưng đức tin chân chính phải đi từ tri thức đến khôn ngoan, từ thế giới hữu hình tới thế giới vô hình, và từ hiện tượng bên ngoài cho đến tận bản chất sâu kín của thực tại. Muốn đạt được như thế, chúng ta cần phải nhận ra những ký hiệu chung quanh, vốn làm cho ta liên tưởng đến một điều gì khác. Ký hiệu tự nhiên giúp nhận thức về một điều nào đó như khói làm cho biết là có lửa. Ký hiệu "đưa ra" là những dấu hiệu xuất hiện do ai đó đề ra, xuất phát từ kinh nghiệm và uy tìn của người khác, vượt trên giới hạn kinh nghiệm cá nhân.
Nếu ngôn ngữ là ký hiệu “đưa ra” thì qua Kinh Thánh, cái vô hình đã trở thành hữu hình trong Đức Kitô, cho chúng ta tri thức tối hậu về sự khôn ngoan mà đức tin đang tìm kiếm. Qua các phép lạ, cuộc sống và lời rao giảng của mình, Đức Kitô cho thấy Ngài thật là Người trung gian, Đấng mặc khải chân lý, và là uy tín của Thiên Chúa. Kinh Thánh cũng làm chứng về uy tín của Ngài. Chứng từ ấy là lời mời gọi hãy đặt cả lòng tin vào nơi Đức Kitô, nguồn cung ứng cho kho tàng tri thức phong phú, xây dựng trên nền móng uy tín của chính Ngài. Nhà chú giải Kinh Thánh phải làm sáng tỏ về ý nghĩa của những thực tại siêu việt vốn là nguồn cội của mọi tri thức và khôn ngoan. Cách thức Augustinô chú giải Kinh Thánh có một mối tương quan thật hết sức mật thiết với việc suy tư thần học.
Đối với Augustinô, không phải tri thức về ký hiệu vật chất giúp giải thích được thực tại vĩnh cửu, nhưng chính tri thức về thực tại vĩnh cửu mới có thể giúp cho giải thích các ký hiệu vật chất. Augustinô dùng lối giải thích phúng dụ, tiên trưng và cả theo nghĩa nguyên văn nữa. Muốn thấu hiểu các ngôn từ trong Kinh Thánh như những ký hiệu của thực tại vĩnh cửu, thì cần phải nhìn nhận chính thực tại ấy. Hiểu biết về Kinh Thánh không đòi phải có kiến thức mới lạ, nhưng đòi phải biết khám phá cho ra thánh ý Thiên Chúa ngõ hầu đạt tới mức chiêm niệm các chân lý vĩnh cửu, là đối tượng của khôn ngoan và của đời sống hạnh phúc. Các chân lý này, được biểu hiện rõ ràng nhất trong quy phạm đức tin của Giáo Hội, vốn là một cộng đồng chú giải.
Fr. Joseph Tân Nguyễn, OFM
Tài liệu tham khảo:
Robert Grant & David Tracy. A Short History of the Interpretation of the Bible. Fortress Press, NY, 1985.
Joseph Tân Nguyễn, OFM. Thông Diễn Học, Học Viện Phanxicô, 2021