Skip to content
Main Banner
LỄ CÁC THÁNH NAM-NỮ (01/11) - Triết III bắt đầu nộp đề tài, dàn bài tiểu luận. (04/11) - HỌP HỘI ĐỒNG QUẢN TRỊ (16/11) - HỘI THẢO CHUYÊN ĐỀ THẦN (23/11) - LỄ ĐỨC MARIA VÔ NHIỄM (nghỉ bù) (09/12) - Tiết học cuối của học kì I (10/12) - Ôn thi học kì I (16/12)

TÔN GIÁO QUA NHÃN QUAN TÂM LÝ HỌC: SIGMUND FREUD & CARL JUNG

BTT HOCVIEN OFMVN
2024-05-05 09:41 UTC+7 154

TÔN GIÁO QUA NHÃN QUAN TÂM LÝ HỌC:

SIGMUND FREUD & CARL JUNG [1]

 

FREU (1856–1939): PHÊ BÌNH TÔN GIÁO

Sigmund Freud (1856-1939), gốc Moravian ở Freiberg, Đức Quốc, lúc còn ở đại học theo đuổi ngành thần kinh và sinh lý học. Sau đó, các giáo sư gây ấn tượng lên ông về sức mạnh của sự can thiệp phi-thể lý (thôi miên) trong việc trị liệu các bệnh tâm thần. Nhận ra là ông có thể giúp giải tỏa các bệnh nhân của ông chỉ cần nói chuyện với họ, từ đó ông lập ra ngành phân tâm học. Phong trào Nazi nổi lên 1938 đã làm gián đoạn sự nghiệp và tăm tiếng của Freud ở Vienna, Austria. Cho dù là vô thần, nhưng gốc Do Thái của gia đình ông bị nghi ngờ. Ông do dự nhưng cuối cùng phải đút lót đám Nazi để được di tản qua London nơi ông mất 15 tháng sau đó vì bệnh ung thư

Sigmund Freud được công nhận rộng rãi là cha đẻ của ngành trị liệu tâm lý. Học thuyết tôn giáo của ông được dựa trên mô hình rối loạn tâm thần: tôn giáo là ảo tưởng đến sự rối loạn thần kinh. Ông đả phá tôn giáo từ nhiều gốc độ. Ông chỉ ra rằng các nghi thức tôn giáo phản ánh hành vi mang tính nghi thức của những bệnh nhân tâm thần. Giống như bệnh ảo giác thần kinh (neurosis), tôn giáo thường được dùng như những van an toàn hữu hiệu cho việc giải tỏa sự căng thẳng nhưng lại không tốt cho việc giải quyết những vấn đề chân thật trong cuộc sống.

Phân tâm học & tôn giáo

Freud dùng ví dụ về cách chửa trị một phụ nữ vì quá khiếp sợ con nhện nên không dám vào phòng nếu cô ta nghĩ có nhện trong phòng đó. Mẹ cô này cứ hay vào phòng cô, không tôn trọng sự riêng tư của con gái. Bác Sĩ Peck nhận thấy có sự liên kết giữa mẹ cô gái và nỗi khiếp sợ của cô về con nhện. Điểm khai mở là trong khi tư vấn tâm lý, cô ta thốt lên “Mẹ tôi cũng như con nhện vậy!” Cô ta bắt đầu nhận ra là cô bị bao vây bởi mẹ cô giống như con ruồi bị dính vào mạng nhện và không thể thoát ra được. Vì cô không thể thể hiện sự tức giận với mẹ cô ta, cho nên cô đã chuyển tải nó qua các con nhện. Điều này tạo nên một cái van an toàn cho cảm xúc tức giận của cô. Một khi cô ý thức được mối liên kết này, cô vượt qua được nổi khiếp sợ về con nhện và bắt đầu đối diện với sự tức giận của cô đối với mẹ cô.

Cũng giống như sự hoảng sợ về con nhện là sự chuyển hướng của năng lực tiêu cực vốn có thể được xóa tan một khi ta khám phá ra nguồn gốc thật sự của nó chính là nỗi tức giận và lo sợ về sự áp bức của người mẹ. Tôn giáo, bằng cách đổi chổ hay chuyễn hướng nhu cầu chân thật và nỗi lo âu của con người vào các hình thức biểu tượng vô thực, đã trở thành một hình thức tha hóa vốn Angăn cản con người đối đầu với các vấn đề và bất mãn thực sự trong cuộc sống con người. Con người có thể sống lành mạnh hơn nếu không có nó, cũng như các bệnh nhân của ông ta sẽ tốt hơn nếu không bị rối loạn thần kinh.

Freud đưa ra giả thuyết về mức độ hoạt động vô thức của tâm trí, nơi mà những ý tưởng và cảm xúc không được tiếp nhận đang bị đè nén. Cách ông giải thích trẻ em có trải nghiệm về cảm xúc tính dục về sự ham muốn và ganh tỵ đối với cha mẹ gây chấn động lên các đồng nghiệp của ông. Học thuyết về tôn giáo của ông nói chung được trình bày qua hai sáng tác, “Linh vật và điều cấm kỵ” (Totem and Taboo) và “Tương lại của một ảo giác” (The Future of an Illusion). 

Totem and Taboo (1913): tôn giáo độc thần & sự tích các con trai giết cha mình. Mặc cảm tội lỗi về việc ám sát người cha làm cho các con trai sợ hãi, và tự hứa sẽ không bao giờ tái phạm. Nhưng việc ám sát này đưa đến thảm họa loạn luân vì sự ham muốn chiếm đoạt người mẹ chính là động lực của việc ám sát. Nhưng vì người cha đã chết, các con trai không thể bày tỏ sự hối hận và đền tội, nên chúng đã lập ông lên và tôn thờ ông như vị Chúa Cha.

Thật là dễ phê bình ý tưởng này là chỉ là tưởng tượng vì không có minh chứng nào cả, nhưng vẫn có một số điểm cần lưu ý về nó. Cho dù Freud trình bày loại hiện tượng này cho phù hợp theo phân tâm học, nhưng ông vẫn không bao giờ khẳng định cuộc giết hại người cha nguyên thủy này là một biến cố lịch sử hay chỉ xảy ra một lần. Thuyết tiến hóa hiện đại cũng đã cho rằng có những sự cố tương tự như thế qua nhiều hình thức xã hội hiện đại khác.

The Future of an Illusion (1927): tôn giáo giải tỏa áp bức vốn gây nên các hành vi có hội chấn rối loạn tâm thần. Freud cho rằng tôn giáo là một ảo giác mà ông ta cẩn thận phân biệt nó với sự đánh lừa đơn giản. Bị đánh lừa chỉ là thiếu khả năng nhận thức thực tại cách vô căn cứ. Ảo giác là những sự thật khả thi. Niềm tin trở thành ảo giác không liên quan gì đến thực tại bên ngoài nhưng dựa trên lý lẽ tại sao chúng ta tin nó. Freud giải thích rằng ảo giác được căn cứ trên “ước muốn được thỏa mãn”. Người ta tin vào chúng không phải vì chúng tồn tại nhưng vì họ muốn chúng có thật.

Freud tin rằng con người bị lôi cuốn bởi nhiều loại áp lực, một trong đó là xã hội. Cuộc sống xã hội đòi hỏi chúng ta phải đè nén đa số các thúc giục bản năng của mình. Tương tự như Marx, Freud hiểu rằng tôn giáo thể hiện mình như một sự an ủi vốn bồi đắp cho chúng ta những thiếu thốn và bất mãn. Tôn giáo đóng vai hàng rào chống lại hỗn loạn xã hội bằng cách cho con người lý do để làm chủ các thúc đẩy của họ. Qua tôn giáo, “sự cấm cản bên ngoài trở thành nội tâm”, ý tưởng tiên trưng cho khái niệm “nomos” của Berger.

Freud khẳng định rằng lý do chúng ta có xã hội (và tôn giáo) là vì thiếu nó chúng ta sẽ bị bỏ mặc cho thế giới tự nhiên. Cũng như Fontenelle và Hume đã nói trước đây, con người nhân cách hóa tự nhiên để chúng trở nên lôi cuống. Trong quan điểm của Freud, chúng ta hãy nhắc lại bối cảnh trước đây qua đó chúng ta bất lực và lệ thuộc vào khả năng làm cho tự nhiên trở thành thân thiên với ước muốn của chúng ta. Bằng cách đó, chúng ta tạo nên và chiếu phóng một nhân vật từ bi và nuôi dưỡng và chiếu phóng nó ra ngoài thực tại. Chủ thuyết chiếu phóng của Freud mang ảnh hưởng của Feuerbach. Nhưng trong khi Feuerbach cho rằng Thiên Chúa là sự chiếu phóng những khía cạnh tốt nhất của con người thì Freud nghĩ rằng Thiên Chúa là một hầm chứa những nỗi lo sợ và hy vọng bất xứng của mình. Thượng Đế hay các vị thần thánh được chiếu phóng cũng phải giúp chúng ta đối phó với những truân chuyên trong định mệnh của cuộc sống. Đây là sứ mệnh mà Berger xác định như thuộc về thần lý học. Freud lý luận rằng tôn giáo là biểu tượng của những đè nén của trẻ con hoặc các nhu cầu tiền cổ. Các nhu cầu này có ba mục tiêu: chúng bảo vệ chúng ta khỏi những kinh hoàng của tự nhiên, chúng hóa giải chúng ta với sự oái ăm của định mệnh, và chúng bù đắp cho chúng ta những mất mát mà xã hội chiếm đoạt của chúng ta.

Freud cũng giải thích tôn giáo qua cách dùng phúng dụ về các bệnh tâm thần. Freud chứng minh rằng tôn giáo không thể được chấp nhận như giá trị hiển nhiên bởi vì chứng cớ của nó không được thuyết phục. Cá nhân không thể tin vào các giáo huấn của nó như là những chọn lựa sáng suốt. Ông nhìn tôn giáo như một sự hoảng loạn tâm linh bởi vì nó thể hiện như một sự rối loạn tâm thần. Tôn giáo có thể tốt cho việc giải tỏa sự áp bức gây nên do bị đè nén, nhưng tốt hơn chúng ta cần đối diện với những bức xúc này một cách trực tiếp và giải thích tôn giáo qua cách dùng ẩn dụ về các bệnh tâm thần. Trong khi những nhu cầu và rối loạn tâm thần trẻ con chỉ hoạt động trong phạm vi cá nhân thì Freud tin rằng tôn giáo đại diện cho sự biểu thị của các nhu cầu này ở mức độ cộng đồng. Phương án chữa lành cho ảo giác là đem các vấn đề bị dồn nén vào ý thức để chúng có thể được đối diện và giải quyết theo sự hiểu biết của người lớn. Nếu tôn giáo không được loại trừ, thì loài người sẽ không bao giờ đối diện với thực tại chân chính của tồn tại. (tự nhiên không yêu chúng ta, định mệnh là tàn nhẫn, xã hội đòi hỏi chúng ta phải giảm trừ các xung lực của mình).

Đánh giá học thuyết tôn giáo của Freud

Nhiều học giả chỉ ra rằng học thuyết tôn giáo của Freud thiếu tính khoa học. Trong tác phẩm “Tương lại của Ảo giác”, Freud không đưa ra chứng cớ nghiên cứu khoa học nào mà chỉ dựa vào kinh nghiệm phân tích các bệnh nhân. Freud lý luận bằng phương pháp loại suy thay vì rút ra định đề. Loại suy mang tính chú giải, nó không thuyết phục chúng ta về cái gì đúng thật như trong thế giới nhưng chỉ đề nghị chúng ta nhìn sự kiện qua một nhãn quan nào đó. Nó giúp cho học thuyết của Freud khả năng tạo khung cho lối suy tư của chúng ta về tôn giáo, nhưng nó không có nghĩa là Freud đã thật sự đúng trong những khẳng định của ông.

Đa số các chuyên viên tâm lý trị liệu đã không còn chấp nhận niềm tin của Freud về phân tâm học phải chấp nhận chủ nghĩa vô thần. Ví dụ cụ thể là C. G. Jung và M. Scott Peck. Nhưng Freud thành công trong cách giúp người ta nhận ra ít nhất tôn giáo có yếu tố thiếu lành mạnh. Một hiệu quả trong trị liệu phân tâm là sự trao đổi tôn giáo bệnh hoạn cho tôn giáo lành mạnh hơn. Freud cũng để lại khái niệm vô thức trong cách chúng ta phân tích về tâm linh.

CARL JUNG (1875-1955): TÔN DƯƠNG TÔN GIÁO

Sinh ra tại Kesswil, Switzerland, năm 1875, Carl Jung rất hướng nội và cô lập khi còn trẻ. Ông cho rằng mình sở hữu hai bản tính khác biệt mà ông gọi là Nhân vật 1 và Nhân vật 2. Ông thích nghiên cứu triết học và các hoạt động tâm linh bất thường. Ông theo đuổi ngành y khoa tại Basel, với chuyên về tâm lý trị liệu và làm việc tại một trung tâm y tế ở Zürich. Jung kết hôn với Emma Rauschenbach in 1903, vốn là người tiếp tục nghiên cứu với ông mãi cho đến khi qua đời năm 1955.

Carl Gustav Jung, khởi đầu sự nghiệp trị liệu tâm lý là một trong những đồ đệ sáng giá nhất của Freud. Nhưng khi Jung bắt đầu suy tư độc lập về tâm lý học và các bệnh liên quan, ông được thuyết phục rằng tôn giáo không như Freud nghĩ là một sự cản trở kinh niên mà còn có khả năng trở thành một nguồn năng lực cho sự chửa lành, tạo sự quân bình và kết nối con người với nhau. Thật vậy, tôn giáo là một yếu tố cần thiết trong vấn đề sức khỏe tâm linh. Jung xem tôn giáo là cảm thức giúp chúng ta liên kết với thực tại vĩ đại hơn cá nhân chúng ta. Chúng ta có thể gọi thực tại này bằng nhiều tên, nhưng nó đại diện cho một mạng lưới vĩ mô và đồng điệu, một ý thức đại đồng vốn đã được tạc ghi vào tâm thức con người. Nội dung của nó là những hình mẫu (archetypes), hay các biểu tượng phổ quát giúp con người tổ chức và tạo ý nghĩa cho sự tồn tại của họ. Kết hợp với suy tư biện luận và duy lý, các hình mẫu và biểu tượng này cho phét con người tiếp cận thế giới cách quân bình và có ý nghĩa.

Năm 1906 Jung hợp tác với Sigmund Freud mãi cho đến khi mối tương quan này chấm dứt năm 1913. Quan điểm của hai nhà nghiên cứu này lúc đầu bổ túc cho nhau và Freud cảm thấy hữu ích khi có một đồ đệ không phải là người Do Thái. Nhưng học thuyết của họ thì khác biệt nhau về các điểm: bản chất của vô thức, tính dục như là cội rễ của mọi hành vi, các hiện tượng huyền bí, và vai trò của tôn giáo. Jung cũng cảm thấy không thoải mái với một số chi tiết về người vợ của Freud, cùng với khát vọng của Freud muốn Jung trở thành một người đồ đệ trung thành và một bản sao sáng lạn của ông.

Sau khi chia tay với Freud, Jung trải qua một “cơn bệnh sáng tạo”. Ông có giấc mơ về Âu Châu đang bị chảy máu. Thế Chiến I bùng nổ sau đó và ông từ bỏ nghề y khoa dành thời giờ trọn vẹn cho việc đọc và viết sách. Sau khi Thế Chiến I chấm dứt, Jung du lịch khắp nơi trên thế giới, và có ấn tượng nhiều nhất về Ấn Độ. Ông say mê đọc các huyền thoại thế giới, tìm hiểu tiến trình sản xuất biểu tượng từ tâm linh, và thực hành một nghiên cứu về thuật giả kim. Jung qua đời vào năm 1961 tại Zürich, Switzerland.

Jung khác với Freud về bản chất của vô thức.

Jung tự mô tả mình là nhà “hiện tượng luận” của tâm linh. Kinh nghiệm là nền tảng, cho dù nó có ý vị hay không. Jung, một tâm lý gia lâm sàng và chuyên viên trị liệu, lưu tâm nhiều về hiệu quả và chức năng sáng tạo của tâm linh hơn là thực tại khách quan bên ngoài. Trong khi Freud nhìn vô thức như là “bãi chứa rác” gồm những nội dung bị đè nén thì Jung nhìn vô thức một cách trung lập, có những gì mà chủ thể không ý thức đến.

Jung tin rằng vô thức có hai phần: cá nhân và tập thể. Vô thức cá nhân là những gì được tích tụ qua trải nghiệm cuộc sống của cá nhân. Nội dung của chúng bao gồm các xung lực. Vô thức tập thể là phần con người thừa hưởng như thành phần của nhân loại. Vô thức tập thể thì quan trọng trong cách Jung đánh giá tôn giáo. Vô thức tập thể không chỉ là sự liên kết huyền bí hoặc là kho dữ liệu tâm linh mọi người cùng chia sẽ. Vô thức tập thể đơn sơ chỉ là cấu trúc thường hằng của con người. Nội dung của vô thức tập thể là các hình mẫu (archetypes): những biểu tượng của thực tại mà hình thức của chúng có thể được kiểm chứng cách thực nghiệm. Bản chất của chúng là phổ quát vì ta có thể quan sát sự xuất hiện tái diễn của chúng qua các huyền thoại và biểu tượng văn hóa trên thế giới (ví dụ, hiện tượng “có hai mẹ” hay “hai bản tính”). Cách chung, con người tiếp cận với các hình mẫu là qua giấc mơ.

Đối với Jung, vô thức và các hình mẫu của nó là những bản năng, nghĩa là chúng không cần dùng khả năng phán đoán của lý trí nhưng lại thể hiện các nhu cầu căn bản và mãnh liệt của con người. Con người tiền sử giải quyết chúng bằng cách tiếp cận với giấc mơ và những cách huyền bí và loại suy khác. Con người hiện đại đã tạo nên cuộc khủng hoảng cho chính mình khi dùng chủ nghĩa suy lý và thái độ hoài nghi về huyền thoại để loại trừ giấc mơ và xem các nhu cầu căn bản và mãnh liệt này như những vết thương thối rữa. Với ý tưởng này, Jung đã tách ra khỏi dòng suy tư của các học giả dựa trên sự tiến hóa của loài người và xem tôn giáo thuộc về giai đoạn ấu trĩ sơ khai của nhân loại. Đối với Jung, chú tâm vào các hình mẫu là nhu cầu dài hạn mà chúng ta không bao giờ kết thúc được.

Jung cảm thấy rằng vô thức, một nguồn sáng tạo và khả năng thích ứng cho cuộc sống, chính là công cụ hỗ trợ cho học thuyết tôn giáo của ông. Freud cho rằng bệnh hoang tưởng có thể chữa được qua cách mang nội dung của vô thức và trong ý thức và thủ đắc chúng, thì Jung nghĩ rằng điều này không khả thi. Cho dù loài người không bao giờ vượt ra khỏi các hình mẫu của vô thức, nhưng khi các hình thức tôn giáo nào đó không còn ý nghĩa hoặc thích ứng nữa, thì chúng ta cần đầu tư năng lực của vô thức vào các hình thức khác hữu hiệu và thích ứng hơn.

Jung dùng ví dụ về khái niệm “Ba Ngôi” để giúp minh họa mối tương quan giữa Tâm lý và Tôn Giáo học. Ông cho rằng ý tưởng Ba Ngôi của Kitô giáo là một biểu tượng thiếu tương xứng cho Đấng Thánh bởi vì trong thế giới thần thoại, bản tính siêu việt của con người luôn được đại diện bằng một vòng tròn chia thành bốn hình vuông. Jung đề nghị hai khả năng có thể lấp vào hình vuông thứ tư của Ba Ngôi: Nữ tính (đại diện bằng Đức Trinh Nữ Mary) và bản năng nền tảng (đại diện bằng Satan). Các khả thể này cung cấp sự đối lập thiếu sót vốn cần thiết cho biểu tượng Đấng Thánh trở nên xứng hợp. Lý tính tân thời không thể nhận ra gì bên ngoài sự mâu thuẫn của hai thực tại đối nghịch, vì thế nó không thể kết hợp các biểu tượng đối nghịch này thành một bức tranh mạch lạc.

Jung nhấn vào ảnh hưởng thay vì thực tại về ý vị của tôn giáo. 

Jung xem sự thánh thiêng và các biểu tượng như là hình mẫu (archetypes) của tâm hồn hơn là thực tại tự thân. Ông cho rằng tôn giáo là phần di sản của con người và sự nâng đỡ hợp thức cho tâm linh con người, chứ không phải như Freud vốn xem tôn giáo như là ảo tưởng và nạng gỗ bất hợp lệ. Ông tin rằng cho dù có khả năng tồn tại những hình thức bệnh hoạn của đến tôn giáo (khi một cá nhân đồng nhất mình quá gần với một hình mẫu nào đó), nhưng cũng có nhiều hình thức lành mạnh của tôn giáo.

Quan điểm của Jung về tôn giáo là thực dụng. Vài biểu tượng giúp trí khôn nhắm vào “bóng tối” của nó, tiêu cực nhưng là một khía cạnh mãnh liệt của bản năng chúng ta. Bằng cách dùng huyền thoại và nghi thức giải quyết các bóng tối này, cá nhân có thể thủ đắt được nó, và thích ứng nó vào chủ thẻ và từ đó đạt sự hội nhập. Tuy nhiên, nếu trở nên quá duy lý, cá nhân sẽ chối bỏ bóng tối như là vô lý, xem nó như là điều nghịch lý đối với các giá trị của mình và cố gắng hủy diệt nó, xem nó như là biểu tượng của cái gì khác với mình, hoặc diễn giải nó theo cách phù hợp với khung suy lý của mình. Các chiến lược này thất bại trong việc đón nhận bóng tối như là bộ phận của tâm linh, vì thế lý tính sẽ làm cho nó băng hoại và thối nát. Jung không lưu tâm cho mấy về “thực tại” của biểu tượng bóng tối. Lo lắng nhiều về bản chất siêu hình của của nó chỉ là một sự chia trí. Tư thế hiện tượng luận này của Jung vốn loại bỏ câu hỏi về thực tại của những khẳng định tôn giáo, đã tách biệt ông ta khỏi một số người có đạo.

Ý tưởng của Jung cho ra đời một lối suy tư xem tính phổ quát của các hình mẫu và chú tâm vào những biểu tượng, giấc mộng và thần thoại có khuynh hướng tái diễn trong tâm linh con người. Các sáng tác của Joseph Cambell, người được ảnh hưởng bởi tư tưởng của Jung đã trở thành nguồn liệu cho các phim Star Wars của George Lucas. Mircea Eliade cũng đã theo lộ trình nghiên cứu tương tự như của Jung.


[1]Joseph Tân Nguyễn, OFM. Tôn Giáo: La Bàn Thiêng Liêng cho con người. NXB Đồng Nai, 2023. 

Chia sẻ