Skip to content
Main Banner
LỄ CÁC THÁNH NAM-NỮ (01/11) - Triết III bắt đầu nộp đề tài, dàn bài tiểu luận. (04/11) - HỌP HỘI ĐỒNG QUẢN TRỊ (16/11) - HỘI THẢO CHUYÊN ĐỀ THẦN (23/11) - LỄ ĐỨC MARIA VÔ NHIỄM (nghỉ bù) (09/12) - Tiết học cuối của học kì I (10/12) - Ôn thi học kì I (16/12)

Bản chất của Thiên Nhiên

BTT HOCVIEN OFMVN
2024-05-05 11:50 UTC+7 133
Thuật ngữ “Nature” có thể được hiểu theo hai cách: (a) thiên nhiên hay vũ trụ vật lý, hoặc (b) bản chất hay yếu tính của một hữu thể. Theo nghĩa thứ nhất, chúng ta nhận ra thiên nhiên như một tổng thể các hiện hữu vật lý mà mình luôn tồn tại trong nó

BẢN CHẤT CỦA THIÊN NHIÊN

 

Thuật ngữ “Nature” có thể được hiểu theo hai cách: (a) thiên nhiên hay vũ trụ vật lý, hoặc (b) bản chất hay yếu tính của một hữu thể. Theo nghĩa thứ nhất, chúng ta nhận ra thiên nhiên như một tổng thể các hiện hữu vật lý mà mình luôn tồn tại trong nó (trực giác) và chúng ta chạm đến thiên nhiên như các giới hạn của thế giới (khách quan). Thiên nhiên là cái đã tất định sẵn; có ở đó trước khi con người xuất hiện; chúng ta nhận ra và phản ứng lại thực tại khách quan của nó. Thiên nhiên được hiểu như là trái ngược với cái nhân tạo hay do con người tạo ra. Thiên nhiên là thực tại mà mọi sự vật khác phải tự thích nghi với nó, vì nó không hoạt động một cách nào khác. Thiên nhiên tự thân nó đặt trước chúng ta như việc đã rồi. Thiên nhiên lên tiếng trước và chúng ta phản ứng lại. Cho dù thiên nhiên được xem như một tổng thể hợp nhất của tất cả mọi hiện hữu, nhưng con người vẫn luôn luôn có thể tách mình ra khỏi thiên nhiên khi chúng ta dùng ngôn ngữ của con người để phân biệt với ngôn ngữ của thiên nhiên. [1]

 

Cách dùng thứ hai của thuật ngữ “nature” là “bản chất” hay “yếu tính” của một thực thể tồn tại riêng biệt và cụ thể. Có thể nói rằng có những thực tại nội tại nhất định tạo nên sự vật, nhờ nó mà chúng ta có thể phân biệt nó với các sự vật khác không phải là nó. Bản chất hay yếu tính của sự vật là nền tảng căn tính của sự vật; đó bản tính “It-ness” của cái “It” cho phép chúng ra lại nhận ra nó vào ngày mai sau khi chúng ta nhận thức nó trong ngày hôm nay. Tương tự, từ Latin, “quidditas” có nghĩa là “what-ness” (cái mà nó là) xác định thực tại cơ bản và đặc thù của hữu thể. Khi chúng ta tiếp xúc với một sự vật lần đầu tiên khi chưa có bất kì một ý niệm gì về nó thì chúng ta sẽ hỏi “Nó là cái gì?” Chúng ta biết chúng ta đang tiếp xúc với một thực tại có thật. Chúng ta tự thuyết phục mình là có một “cái gì đó” tồn tại, nhưng chúng ta không biết bản chất của cái đó. Chúng ta phải tìm hiểu cái “quidditas”, tức là bản chất hoặc yếu tính của sự vật đó.

 

Nhưng làm sao chúng ta có được tri thức về bản chất hay yếu tính của thế giới vật lý cách khách quan trong khi chúng ta chỉ là một phần của bản chất mà chúng ta đang nghiên cứu? Câu trả lời là bất cứ gì được dùng để nói về bản chất của mọi thân xác vật lý thì tất nhiên cũng được dùng để nói về cho thân xác của chúng ta. Tri thức của chúng ta về thế giới, trong hình thái đầy đủ và hoàn thiện nhất, sẽ là tri thức trí tuệ được biểu lộ về chính nó qua các ý niệm. Tri thức trí tuệ đi theo sau và phụ thuộc vào tri thức tri giác. Nhưng bởi vì hữu thể vật lý thì phản hồi lại hữu thể vật lý theo nghĩa vật chất của nó, cho nên chúng ta có cảm giác quen thuộc ở cấp độ đơn giản trước khi chúng ta có tri giác về hữu thể vật lý. Nhưng cảm giác hay tri giác chỉ là một loại trực giác, không cho ta biết hoàn toàn về thực tại chính xác của thế giới vật chất. Triết thiên nhiên cần nắm bắt sự thông tri sâu sắc và tinh tế của hữu thể với hữu thể, một sự cộng hưởng cơ bản của một thụ tạo phản ứng lại một thụ tạo khác.

 

Chúng ta cảm nhận bản tính “chất thể” ở bên trong và bên ngoài bản thân của chúng ta bởi vì chúng ta nhìn, nghe, ngửi, nếm và sờ nó. Cách hữu hiệu nhất để hiểu một sự vật gì đó (vật chất) là đặt nó trong sự đối nghịch với cái không cùng bản tính như nó (phi vật chất). Những người theo chủ nghĩa duy vật đã tự ngăn cản họ khỏi khả năng suy tư biện chứng khi họ loại trừ bản chất trung thực của chất thể để biện luận rằng mọi thực tại đều là vật chất. Họ không đưa ra lý do nào để lý luận là chỉ có thực tại vật chất thì triết thiên nhiên chỉ ra rằng toàn thể thực tại không thể chỉ được tóm gọn trong thực tại vật chất. Triết thiên nhiên khởi đầu phương pháp nhận thức hữu thể vật chất bằng các xác định rằng hữu thể vật chất là trái ngược lại với hữu thể phi vật chất. Và chúng ta mở rộng phạm vi của sự trái ngược này rằng hữu thể vật chất là hữu thể mà chúng ta có thể có cảm giác, và hữu thể phi vật chất là hữu thể mà chúng không thể cảm nhận bằng giác quan.

 

Nhưng làm sao chúng ta có thể khẳng định cách thức mà qua đó có hai thực tại khác nhau nếu như sự hiểu biết của tôi bị giới hạn trong phạm vi của các giác quan? Chỉ vì một sự vật không cảm nhận được bằng giác quan thì nó không tồn tại hay sao? Chúng ta phải tiếp cận vấn đề này một cách trực tiếp và bắt đầu với thực tại phi vật chất quen thuộc qua các kinh nghiệm thông thường như ý tưởng, khái niệm trong toán học, triết học, hay các ngành khoa học.

 

Hãy xem xét “con số 3” – một thực tại hoàn toàn phi vật chất, vì khái niệm “số 3” không thể được nhìn, nghe, nếm, sờ hoặc ngửi thấy. Nhưng làm sao một thực tại phi vật chất (khái niệm, ý tưởng, con số) chỉ có thể tồn tại trong tâm trí và phụ thuộc vào thân xác (thực tại vật chất), có thể tồn tại mà không có thực tại vật chất? Vì vậy chúng ta có thể kết luận rằng xét cho cùng thực tại vật chất là thực thể có thật. Cách biện luận này nảy sinh một điểm thú vị, đó là những ý niệm thì tồn tại một cách trung thực, nhưng trước khi ý niệm có thể tồn tại thì phải có tâm trí vốn đã suy nghĩ ra những ý niệm đó. Thật vậy, nếu một ý niệm không thể tồn tại tách khỏi một cơ sở vật chất, điều này không có nghĩa là tất cả hữu thể phi vật chất phải tồn tại một cách hoàn toàn phụ thuộc. Một cây đổ trên rừng cho dù không có ai lắng nghe tiếng động, nhưng không có nghĩa không có tiếng động, vì nếu nó xảy ra, thì nó đã tồn tại trong tư tưởng của Thiên Chúa rồi. Cho dù thực tại vật chất không thể tồn tại một cách độc lập, tách khỏi thực tại vật chất nhưng thực tại phi-vật chất không phải hoàn toàn tuân theo quy luật này. Hơn nữa, chỉ vì có một hữu thể phi vật chất tồn tại phụ thuộc (như tư tưởng của con người) không đòi buộc rằng mọi trường hợp của hữu thể phi vật chất phải tồn tại phụ thuộc. Thực tại phi vật chất có thể tồn tại phụ thuộc nhưng cũng có thể tồn tại hoàn toàn độc lập với chất thể. Điều này không có gì là mâu thuẫn.

 

Mô Thể (form) & Chất Thể (matter)

 

Học thuyết mô-chất thể (hylomorphism) quan niệm rằng, mọi thứ dưới dạng vật chất đều là một thực thể phức hợp, được cấu thành bởi chất thể (hylo) và mô thể (morphe). Đây là cách Aristotle giải thích về sự biến dịch, tức là sự thay đổi giữa trạng thái “là” và “trở thành” của mọi hữu thể.[2] Mô thể là phần chính yếu của cái mà sự vật “là”. Chiếc ghế mà chúng ta ngồi là một sự vật mà đặc tính của nó không thể giảm trừ thành thanh gỗ, cũng không phải một cái gì đó mà có thể được giảm xuống chỉ còn mỗi ý tưởng trừu tượng về chiếc ghế mà thôi. Nó xuất hiện và cùng chịu sự chi phối của cả hai nguyên lý - mô thể và chất thể - trong mối tương quan sâu xa. Đó là hiện thực và hiện thân của ý tưởng về chiếc ghế bằng gỗ.

 

Mỗi ngày chúng ta chứng kiến tính xác thực của mô thể tự nhiên ngang qua các kinh nghiệm của chúng ta. Những tên gọi mà chúng ta gán cho các thể nghiệm khác nhau ấy có thể đến từ truyền thống hoặc cách tùy tiện, tuy nhiên chúng đều phản ánh sự khác biệt thật sự về chính bản thể của sự vật mà chúng ta đang trải nghiệm. Trước tiên, về chất thể, Aristotle dùng từ chất thể “đệ nhất” để nói về tiềm thể thuần túy của vật chất vốn cho phép nó trở thành chất thể “đệ nhị” như gỗ, đồng, nước, v.v. Trong khi chất thể “đệ nhất” là tiềm thể cho chất thể đệ nhị” thì chất thể “đệ nhị” cũng là tiềm thể cho mô thể trở thành các thực thể vật chất, như gỗ có khả năng trở thành bàn ghế. Chất thể và mô thể tuy khác biệt nhưng sự thực chúng không bao giờ tách biệt, nhưng luôn gắn kết với nhau như mặt trước và mặt sau của một đồng xu. Theo Aristotle, là một tiểm thể nguyên thủy, “chất thể đệ nhất” cho dù chưa ai thấy nó, nhưng trên nguyên tắc nó phải có tự muôn đời. Đây là điều mâu thuẫn với học học thuyết tạo dựng. Một mô thể (form) có thể tồn tại qua nhiều chất thể (matter) khác nhau sự như “bàn” gỗ, “bàn” sắt, “bàn” kính. Và nhiều loại mô thế cũng có thể chia sẽ dùng một loại chất thể, như con người, sinh vật, hay động vật tuy khác nhau mô thể, nhưng cùng mang thân xác vật chất. Vì sự đa dạng này, cho dù mô thể được xem như là nguyên lý thống nhất của mọi thực thể, nhưng đây là cách xác định sơ bản nhất về cá thể tính trong siêu hình học về hữu thể.

 

Siêu hình học dùng ngôn ngữ qua ba cách cơ bản để truyền đạt ý nghĩa: đơn nghĩa, dị nghĩa và đồng nghĩa. Đơn nghĩa (univocal) là cách dùng ngôn từ mà ý nghĩa của nó luôn thống nhất, liên tục, và không thay đổi qua nhiều phạm vi, như khi “hữu thể” được dùng để nói về sự tồn tại của Thiên Chúa và mọi loài thụ tạo dù nhỏ bé nhất. “Đa nghĩa” (equivocal) ám chỉ cách dùng một ngôn từ nhưng có nhiều ý nghĩa không hề liên quan tới nhau, ví dụ từ “ăn” được dùng trong cả hai nghĩa hoàn toàn khác nhau như “ăn năng” hay “ăn trộm”. Còn cách dùng “loại suy” (analogous) thì dựa vào sự so sánh đối chiếu tính tương đồng và tương phản của cùng một từ trong hai bối cảnh. Phương pháp “loại suy” giúp gia tăng sự hiều biết bản chất của một thực thể bằng cách thiết lập mối quan hệ so sánh giữa nó và hữu thể khác nó.

 

Triết học chủ yếu dựa vào lối tư duy loại suy. Khi nói đến “loại suy về hữu thể” chúng ta nhấn mạnh vào ý nghĩa chung của động từ “hiện hữu”, vốn xác định sự thống nhất giữa tất cả các thực thể đang hiện hữu. Cả Thiên Chúa và con bọ chét đều “hiện hữu”. Cả hai trường hợp này đều đúng vì ở mức độ cơ bản nhất cả Thiên Chúa và con bọ chét đều là hữu thể. Nhưng cũng không đúng bởi vì hình thức hay tính hiện hữu của hai trường hợp này không hề giống nhau. Con bọ chét có thể được cho là “có” hiện hữu, nhưng chỉ mình Thiên Chúa mới “là” hiện hữu. Bản tính của Thiên Chúa là hiện hữu, bản chất con bọ chét được hiện hữu nhờ vào Thiên Chúa. Sự hiện hữu và vô hữu (tính bất tất) của mọi thụ tạo có thể được giải thích và làm sáng tỏ qua nền tảng tất yếu của hiện hữu. Nhưng bản tính “là” hay “hiện hữu” của Thiên Chúa thì không hề có cách thế nào để so sánh hay mô phỏng. Do đó, qua ngôn ngữ loại suy chúng ta có thể nói, Thiên Chúa là Đấng tự hữu!

 

Từ khái niệm “loại suy về hữu thể” chúng ta có thể khẳng định rằng “là” có lẽ là phạm trù phổ phát, đơn giản và căn bản nhất. Có bao nhiêu hữu thể cá biệt thì có bấy nhiêu cách thế “là”. Chỉ có cách thế tồn hữu của Thiên Chúa là vượt qua mọi phạm trù "hiện hữu" của chúng ta, vì hiện hữu của Thiên Chúa là nguyên nhân cho mọi hiện hữu khác. Thiên Chúa là Hữu Thể vô hạn, không bị ràng buộc bởi thuộc tính nào của hữu thể. Cho dù tri thức và ngôn ngữ con người là giới hạn và thiếu chính xác, nhưng thần học, nhất là thần học Kinh Viện, đã không ngần ngại dùng ngôn ngữ loại suy để khai triển các yếu tính về Thiên Chúa, và các khái niệm như Tạo Thành, Thần Tính của Đức Kitô, Vô Nhiễm Thai của Đức Mẹ, Cứu độ, v.v. Như thế, loại suy có cho chúng ta cách nói về nhiều thể cách tồn tại cho dù ở mức độ tự nhiên hay siêu nhiên, thể lý hay luân lý, vật chất hay phi-vật chất.

 

Giờ đây, chúng ta hãy xét liệu mô hình mô thể-chất thể của Aristotle có khả năng bảo đảm tính thống nhất của hữu thể không. Bất kỳ bộ phận cá biệt nào bị tách ra khỏi hệ thống mà nó là một thành phần thiết yếu, thì nó không thể tồn tại trong trạng thái biệt lập. Nó sẽ mất đi lý do thích đáng để tồn tại. Sự đa dạng của các bộ phận bên trong một hệ thống không làm giảm đi sự thống nhất của toàn bộ, mà hơn thế nó còn làm gia tăng sự thống nhất của cái toàn bộ đó. Nhưng sự thống nhất của một sinh vật là sự thống nhất tự nhiên, trong khi đó, sự thống nhất của máy móc lại là sự thống nhất nhân tạo. Một cái thì do con người tạo ra còn cái kia thì do thiên nhiên ban tặng. Sự thống nhất tự nhiên là cái gì đó xuất hiện tự bên trong, còn sự thống nhất nhân tạo thì được định dạng từ bên ngoài, như là kết quả của người chế tạo ra máy móc.

 

Một hình thức thống nhất khác là các tổ chức xã hội do con người lập ra. Sự thống nhất của xã hội được hình thành từ các tác nhân tự do, những người muốn cùng nhau xây dựng tập thể nhân loại, với cùng mục tiêu phát triển và tiếp tục tồn tại. Đây là biểu hiện của ý chí tự do vượt ra ngoài tính khả dĩ của bất kỳ vai trò nào của một cỗ máy. Sự thống nhất có thể tìm thấy được trong vũ trụ thì bao gồm trong đó tất cả mọi khả thể đa dạng mà chúng ta có thể hình dung được. Vấn đề đặt ra là: Liệu chúng ta có thể nhận diện được tính cá biệt hữu thể mà chỉ dựa vào sự thống nhất của nó? Nền tảng của tính cá thể hay đơn biệt của một vật thể là gì?

 

Học thuyết mô-chất thể khẳng định rằng mọi sự vật đều được cấu thành bởi chất thể và mô thể. Chất thể là cái được chúng ta nhận biết trước tiên bởi các giác quan vì nó có thể được thấy, nghe, nếm, sờ, và ngửi. Chất thể cho chúng ta biết về sự kiện khi cơ thể chúng ta chạm vào một hữu thể vật lý, hay khi giác quan của chúng ta phản ứng lại các sự kiện bên ngoài. Tuy nhiên, tri thức về sự vật trích xuất từ chất thể vẫn còn bị giới hạn bởi vì nhiều sự vật khác biệt có thể có cùng chất thể. Do đó, chúng ta cần đến nguyên lý căn bản hơn nữa vốn có thể cho chúng ta tri thức chính xác hơn về sự vật; nguyên lý này được gọi là "mô thể" hay bản chất. Nhưng “mô thể” không phải là cái dành riêng cho một chất thể. Cùng một bản chất có thể được chia sẻ bởi nhiều đối tượng chất thể. Ví dụ, con người là những cá thể cùng chia sẻ một mô thể hay bản chất (hồn & xác), nhưng mỗi người chúng ta hoàn toàn cá biệt và đặc thù, không bao giờ có thể lặp lại trong lịch sử. Vì vậy, để nhận diện tính cá biệt của mỗi hữu thể, chúng ta cần nhiều hơn là mô thể và chất thể. Chúng ta cần nguyên tắc căn bản hơn nữa để khai triển các mức độ mô thể khác nhau và cách chúng kết nối với chất thể của hữu thể.[3]

 

Bản Thể (substance) & Tùy Thể (accidence)

 

Tương quan giữa bản thể và tùy thể thì gần giống nhưng tương quan giữa mô thể và chất thể, hay yếu tính và tồn tại. Bản thể là cái có sự tự tồn trong và thuộc về chính nó, trái với tùy thể là cái tồn tại trong cái khác. Bản thể có một sự tồn tại độc lập bởi các nguyên lý nội tại vốn tạo nên bản sắc riêng của nó. Khi chúng ta nói rằng bản thể tồn tại một cách độc lập, chúng ta đang đề cập đến một sự độc lập tương đối chứ không phải tuyệt đối). Aristotle đề cập đến bản thể như là một "đích thị" (this). Một "đích thị” là "cái có đó" dứt khoát với nó. Mỗi người là một bản thể. Bất kỳ sinh vật nào cũng là một bản thể. Nhưng một chiếc xe hay máy vi tính thì không được hiểu như là một bản thể, vì nó không có sự tồn tại nền tảng, ta có thể lắp ráp chúng qua nhiều cách khác nhau. Nhưng đồng hay gỗ lại được coi là một hữu thể bản thể. Thế nên, hữu thể bản thể, là một cách thế riêng biệt của hữu thể, khác với phương thế của hữu thể tùy thể. Hai sự biểu lộ cốt lõi nhất là hữu thể bản thể và hữu thể tùy thể. Hữu thể bản thể là cái tồn tại trong và thuộc về chính nó, hữu thể tùy thể là cái tồn tại trong cái khác như màu sắc, hình dạng, vv.

 

Theo định nghĩa, tất cả các tùy thể chỉ có thể tồn tại được là nhờ “bám” vào trụ cột của bản thể. Tùy thể là “kẻ chỉ báo” của bản thể, chúng khai lộ cho chúng ta thấy thực tại bản thể. Thông qua các tùy thể mà chúng ta biết đến thực tại bản thể. Tùy thể không thể tách rời bản thể, liên quan chặt chẽ đến tính chất của bản thể, và chúng ta không thể hình dung nổi bản thể nếu không có tùy thể như là những thuộc tính của hữu thể. Như vậy, những tùy thể này khải lộ yếu tính của bản thể nơi mà nó vốn gắn liền.

 

Trong hữu thể người, lý tính là một loại tùy thể vì lý tính không phải là cái gì tồn tại độc lập trong thế giới vật lý. Chúng ta bắt gặp lý tính như là một phẩm chất đặc biệt chỉ có trong những thụ tạo mà chúng ta gọi là người. Lý tính là một đặc tính bản chất tuyệt đối của hữu thể người, vì thiếu nó, chúng ta không còn đối diện với hữu thể người nữa mà là một cái gì đó khác với “người”. Vậy, lý tính là một tính năng cần thiết cho sự trọn vẹn và không thể tách rời của bản tính người. Tuy lý tính là tùy thể của con người, nhưng ta không thể tách nó ra khỏi bản tính con người bởi vì nó là hệ quả tất yếu của bản thể đó.

 

Về mặt siêu hình, bản thể thì căn bản hơn tùy thể. Bản thể phải có sẵn trước khi các tùy thể có thể tồn tại. Nhưng về mặt tồn tại thực hữu, bản thể và tùy thể luôn gắn liền với nhau. Người ta không bao giờ phát hiện ra một bản thể vật lý mà lại không có các tùy thể. Sự hiện hữu bản thể xuất hiện từ một cấp độ hiện hữu sâu hơn là cấp độ hiện hữu của phụ thể. Vì bản thể là nền tảng, vốn là nòng cốt cho hiện hữu tùy thể, và đưa ra lời giải thích cuối cùng cho mọi tùy thể.

 

Hai phương thức tồn tại căn bản nhất của hữu thể là tồn tại như là bản thể và tồn tại như là tùy thể. Như thế, chúng ta cũng có thể nói về hai phương thức tồn tại của mô thể là mô thể bản thể (substantial form) và mô thể tùy thể (accidental form). Mô thể tùy thuộc là một phương thức hiện hữu đặc thù của mô thể bản thể. Trái lại, mô thể bản thể là nguyên tắc sắp xếp và thống nhất của tất cả mô thể tùy thể vốn nói lên bản chất của đối tượng vật chất đó. Mỗi đối tượng chỉ có một mô thể bản thể, và nếu không có nó, thì sẽ không có sự thống nhất, không có trật tự. Tuy nhiên, một hữu thể có bao nhiêu đặc tính, cái mà giúp xác định mô thể bản thể của một hữu thể, thì sẽ có bấy nhiêu mô thể tùy thể. Ví dụ, màu sắc của các loài chim chích chòe sống trong vùng nhiệt đới biểu thị cho mô thể tùy thể của mô thể bản thể “chim chích chỏe”. Chiếc đồng hồ chỉ có “mô thể tùy thể” nhưng mọi hình thức sự sống đều có “mô thể bản thể”, vì sự sống là khả năng tự tồn xuất phát từ các nguyên lý nội tại của nó.

 

Trong khoa học hiện đại, thuật ngữ "bản thể" đã trở thành một trở ngại khi nghiên cứu về bản chất của thế giới vật chất. Một số triết gia đơn sơ phủ nhận thực tại của bản thể, coi nó như là một điều đáng tiếc mà thời kỳ đen tối của lịch sử nhận thức con người để lại. Một số khác nhìn nhận bản thể như là một ý tưởng không đáng để bàn đến một cách quá nghiêm trọng. Nhưng các nỗ lực phủ nhận bản thể sẽ dừng chân nơi thực tại mà họ đã phủ nhận. Nếu sự phân tích về thế giới vật chất mà không có bất kỳ sự liên quan nào đến bản thể tức là nền tảng vật chất của đối tượng đang được nghiên cứ, cho dù không sử dụng hạn từ "bản thể", thì làm sao các nhà khoa học có thể xác định hoặc nói điều gì đó về thế giới vật chất được? Họ đang đối diện với thực tại có bản thể là vật chất. Như thế, ho không thể thoát khỏi được thực tại của chính điều mà họ cứ khăng khăng từ chối thừa nhận.

 

Yếu Tính (essence) & Tồn Tại (existence)

 

Cuối cùng, chúng ta hãy xét cặp phạm trù vốn có khả năng phân biệt giữa cách hữu thể tồn tại bên trong và bên ngoài của nó. Hầu hết các sai lầm trong triết học có liên quan đến sự lẫn lộn về ý nghĩa chính xác giữa hai hạn từ “yếu tính” và “hiện hữu”, hoặc thiếu thừa nhận sự phân biệt giữa hai từ đó. Người ta hay giản lược hoặc nhầm lẫn giữa hai phạm trù này. Yếu tính thì rất gần với khái niệm mô thể hay bản thể. Yếu tính của vật nào đó đơn giản chỉ là bản tính tự nhiên hay là cá thể tính (quidditas) của nó. Không có vật gì mà lại không có yếu tính, vì nếu không thì sẽ không có gì gọi là "vật" được. Tri thức con người có thể trừu xuất yếu tính (mô thể, bản thể, cá thể tính) của một sự vật ra khỏi từng hữu thể để có thể nhận thức được sự riêng biệt của nó. Chỉ ngang qua yếu tính của các hữu thể thì chúng ta mới biết được nhiều thứ khác nhau.[4] Đây đơn giản là sự kết hiệp giữa khả năng nhận diện thực thể vật chất và phi vật chất. Trí khôn con người, vốn dĩ là phi vật chất, có thể nắm bắt được một cách trọn vẹn yếu tính của sự vật, thông qua phương pháp trừu xuất. Trí khôn trừu xuất yếu tính phi vật chất từ vật chất tính của những cá thể. Nhưng liệu “yếu tính” có bảo đảm sự tồn tại của một hữu thể không? Biêt yếu tính của một hữu thể có thể kết luận là hữu thể đó hiện hữu không?

 

Tất nhiên, yếu tính có thực vì nó là ý tưởng trí khôn trừu xuất từ hữu thể, nhưng bản chất của sự tồn tại đó là tùy thể, nó chỉ hiện hữu trong tâm trí. Khả năng hình thành một khái niệm về một sự vật của con người tự nó không thể tạo nên sự tồn tại của sự vật đó bên ngoài tâm trí. Nhưng cho dù mọi sự vật luôn trong trạng thái thay đổi, trí khôn vẫn có thể nắm bắt được yếu tính, hay ý tưởng rõ ràng về cá thể tính (quidditas) của sự vật.

 

Giờ đây, nếu xét từ nhãn quan của yếu tính, thì tồn tại chính là hành động biểu lộ yếu tính của một hữu thể ra bên ngoài nó. Hiện hữu là đi vào trong các phạm trù thời gian và không gian. Đây không phải là một hành vi hay hoạt động bên ngoài vốn có thể được quan sát và định lượng. Rõ ràng là trước khi điều gì đó có thể ở trong một cách thế cụ thể, trước hết nó đơn giản phải là, vì hiện hữu là mô thức chính yếu hay cơ bản nhất của hành động. Để một con ngựa chạy nhanh thì trước tiên nó phải tồn tại như là con ngựa. Aristotle gọi mô thức cơ bản của hữu thể này là "Nhất vi” hay “hành động tiên khởi". Hiện hữu là cách yếu tính thể hiện chính mình. Hiện hữu nói lên "cái là" (is-ness) của yếu tính. "Cá thể tính" (quidditas) đứng im, nhưng "là" hay hiện hữu sẽ không ở một chỗ. "Là" là hành động mà ngang qua nó một cái gì đó tỏ lộ chính nó. Khi ta có được một ý tưởng về “XP, tức là ta nắm bắt được yếu tính của X, nhưng tồn tại, tức là hành động của hiện hữu, sẽ không bị nắm bắt. Chúng ta không thể sao chụp được chân dung của cái "là" trong trạng thái bất động hay trong trạng thái chuyển động", bởi vì “là” là nguyên lý ẩn hiện đàng sau cả hai trạng thái vốn là mối liên kết nền tảng giữa lý trí và thế giới vật lý.

 


[1] Xem John W. Carroll, “Laws of Nature”, (2020). Nguồn: (https://plato.stanford.edu/entries/laws-of-nature/)

[2] Xem Andrea Falcon, “Aristotle on Causality,” (2019). Nguồn: (https://plato.stanford.edu/entries/aristotle-causality/)

[3] Xem Jonathan Schaffer, “The Metaphysics of Causation,” (2016). Nguồn: https://plato.stanford.edu/entries/causation-metaphysics/

[4] Xem Michael Nelson, “Existence,” (2020). Nguồn: (https://plato.stanford.edu/entries/existence/)

Chia sẻ