Skip to content
Main Banner

ĐỐI THOẠI GIỮA TÔN GIÁO VÀ KHOA HỌC: NIỀM HY VỌNG CHO TƯ DUY THẦN HỌC

BTT HOCVIEN OFMVN
2025-09-29 10:43 UTC+7 81

ĐỐI THOẠI GIỮA TÔN GIÁO VÀ KHOA HỌC

NIỀM HY VỌNG CHO TƯ DUY THẦN HỌC

 Joseph T. Nguyễn, ofm

Luận đề ngôn ngữ của Augustine

Giải thích phép lạ và quy luật vật lý

Chân lý Kinh Thánh và chân lý khoa học

“Thợ Đồng Hồ” và “Thiết Kế Thông Minh”

Địa chấn học và “ngày” của Sáng Thế

Thuyết tiến hóa và nguồn gốc sự sống

Niềm hy vọng cho tư duy thần học

Hy vọng là một chủ đề rộng lớn và mơ hồ, cần phải được cụ thể hóa trong một bối cảnh nào đó. Chúng ta hãy nhìn lại hai lối nhìn về “hy vọng” sau đây. Trước tiên, trong những mảng văn còn lại của nhà hiền triết Hy-lạp cổ đại Thales (548 BC) có ghi: “Hy vọng là sự thiện độc đáo mà bất cứ ai cũng có; cho dù khi mất tất cả thì ta vẫn còn sở hữu nó.[1] Mười tám thế kỷ sau đó, trong thi tập Inferno (1231 AD), thi sĩ Dante kể lại hàng chữ khắc trên cổng chào vào địa ngục: “Vào đây không còn hy vọng gì nữa!”[2] Vậy quan điểm về “hy vọng” theo Thales hay theo Dantes, cái nào đúng hơn?  Có lẽ chúng ta sẽ thấy đúng hơn là khi các quan điểm đối nghịch cùng đối thoại với nhau để tìm ra chân lý chung. Trong đối thoại, chúng ta hy vọng rằng quan điểm của mình và của đối phương dần dần sẽ được bóc tách và kết hiệp lại với nhau, từ tiền đề và phản đề mong sẽ đạt đến một hợp đề. Như thế, đối thoại khởi đầu với một niềm hy vọng mong manh; niềm hy vọng này được nuôi dưỡng qua tiến trình đối thoại; và hiệu quả của đối thoại chính là sự hiện thực của niềm hy vọng ban đầu.

Điều này đã được minh chứng qua lịch sử đối thoại giữa thần học và khoa học. Từ thuở ban đầu của nền văn minh Tây phương, đã có sự tương giao biện chứng giữa thần học và triết học, trên hành trình tìm kiếm tri thức (science) tối hậu. Với những khám phá mới ở thời Khai Sáng, khoa học thực nghiệm đã tách ra khỏi triết học tự nhiên và trở thành mối đe dọa cho thẩm quyền tôn giáo. Thần học Công Giáo phản ứng bằng cách rút về sau thành trì kiên cố của nền thần học Kinh Viện. Tuy nhiên, những nỗ lực đối thoại với não trạng tân thời cho thấy tư duy thần học đã không bị loại trừ, mà còn có cơ hội cập nhật hóa và lan tỏa ra nhiều lĩnh vực khác nữa. Bài khảo luận này sẽ phân tích các mô hình đối thoại giữa thần học và khoa học. Sau đó chúng ta sẽ sơ lược qua năm bối cảnh lịch sử vốn đã tạo nên những khúc quanh trên hành trình suy tư thần học. Kết quả cho thấy, đối thoại giữa thần học và khoa học, mới chính là niềm hy vọng cho nỗ lực “đức tin tìm kiếm sự hiểu biết”.

LUẬN ĐỀ NGÔN NGỮ CỦA AUGUSTINE

Chúng ta thường cho rằng có sự nghịch lý cố hữu giữa thần học và khoa học vì một bên dựa trên đức tin còn bên kia dựa trên lý trí. Nhưng lối phân biệt này thì quá đơn sơ. Đành rằng có sự khác biệt về phương pháp nghiên cứu giữa hai lĩnh vực này, nhưng khoa học vẫn có những niềm tin căn bản nào đó trong cách nó lý luận, và thần học cũng tùy thuộc vào khả năng lý trí khai triển nội dung của mạc khải. Trong khi khoa học được đặt trên những giả thuyết và chứng cớ có thể kiểm nghiệm, thì thần học căn cứ trên niềm tin và trải nghiệm cá nhân. Tư duy tôn giáo thường bị gán là thiếu khoa học, nhưng lý luận khoa học cũng phải dừng chân trước những vấn đề tối hậu của con người nếu chỉ dựa trên lý chứng thực nghiệm. Tuy không thể chối bỏ sự khác biệt giữa thần học và khoa học, nhưng hai lĩnh vực này vẫn có thể bổ túc cho nhau trên hành trình con người tìm kiếm chân lý.

Có nhiều cách khai triển sự tương hợp giữa khoa học và thần học. Cách thông thường nhất là khảo sát những mô hình mà hai lộ trình này đã đóng góp vào sự hiểu biết về thế giới. Khoa học cho chúng ta các phạm trù như vật lý, hóa học hay sinh học để giải thích bản chất vũ trụ “là gì” và được kết hợp như “thế nào”. Tôn giáo cung cấp viễn tượng về thực tại tối hậu để diễn giải “tại sao” phải có vũ trụ và “ai” đã tạo nên nó. Cả hai lộ trình xuất phát từ những khao khát sâu xa nhất của con người. Từ thời Cổ đại, nhiều khám phá khoa học đã bắt nguồn từ truyền thống tôn giáo và nhiều lãnh đạo tôn giáo cũng là khoa học gia hay triết gia. Nhưng khởi đầu từ Cách mạng Khoa học ở thế kỷ XVIII, thì niềm tin tôn giáo bị xem như là chướng ngại vật ngăn trở sự tiến bộ của khoa học. Từ đó, nhiều học giả Khai Sáng tự gán cho mình sứ mệnh khai phóng lý trí khỏi sự thống trị của tôn giáo qua lộ trình khoa học.

Cao điểm của viễn tượng “khoa học sẽ giải phóng con người” được thấy qua các sáng tác của John William Draper và Andrew Dickson White ở thế kỷ XIX.[3] Hai học giả này cổ xúy mô hình “chiến tranh” giữa tôn giáo và khoa học. Nhưng Draper đã dùng những tài liệu và lý luận thiếu khoa học khi tạo nên não trạng kỳ thị đối với luồng sóng di dân Công giáo mới đến Hoa Kỳ thời đó. White, một sử gia và hiệu trưởng đầu tiên của Cornell University, cũng đã tố cáo một cách sai lầm rằng Giáo hội Công giáo đang chống lại hình ảnh thế giới như một quả cầu và cấm đoán mọi nghiên cứu phẫu thuật trên thân thể con người. Chủ ý của hai học giả này là thay thế tôn giáo bằng khoa học nhưng họ đã không nhận ra rằng nhiều học giả thời Trung Cổ xem cả thần học và triết học tự nhiên là những nguồn tri thức (science) chân chính. Thành quả của các thần học Kinh Viện là sự kết hợp tinh tế nội dung của mạc khải với triết lý thế tục của Aristotle (Aquinas, Don Scotus, Ockham, v.v.). Qua thời gian, mô hình “chiến tranh” mất dần hiệu lực nhưng nó vẫn để lại dư âm nơi tâm thức của những học giả bảo thủ hoặc các tín đồ cực đoan.

Thánh Augustine (354-430) đề nghị một hình thức tương tác giữa tôn giáo và triết học hợp lý hơn qua “Chủ thuyết Hai Cuốn Sách” (Two Books theory). Lúc đầu, Augustine cho rằng, giáo lý Kitô thì quá thô sơ trong cách lý luận và Kinh Thánh còn chứa đầy dẫy các mâu thuẫn. Nhưng sau khi nghiên cứu triết học tân-Platô (Plotinus), Augustine đã khai triển một luận đề ngôn ngữ cho việc chú giải Kinh Thánh căn cứ trên sự hài hòa giữa lý trí và đức tin. Qua nhãn quan học thuật của Clement ở Alexandria, Augustine nhận thấy có sự hiệp nhất giữa tư duy thần học và tri thức về thế giới tự nhiên. Nếu Thiên Chúa là tác giả của cả sách Kinh Thánh và sách Thiên Nhiên, thì hai nguồn tri thức này không thể mâu thuẫn với nhau. Tuy thế giới là tạm bợ so với cõi vĩnh hằng, nhưng ân sủng có thể hỗ trợ lý trí để nắm bắt nội dung của mạc khải và sự khôn ngoan vĩnh cửu chính là Thiên Chúa. Từ đó, Augustine kết nối tri thức về thế giới với nghệ thuật chú giải bản văn để bóc tách các mức độ ý nghĩa thần học của Kinh Thánh (từ nguyên, ẩn dụ, loại suy và luân lý).

Quan trọng hơn nữa, Augustine khẳng định rằng mạc khải của Kinh Thánh thì thích ứng (accommodation) với trình độ hiểu biết của độc giả gốc. Ý định tối hậu của Thiên Chúa vốn là tác giả của Kinh Thánh thì thường bị che đậy phần nào bởi ngôn ngữ và sự hiểu biết của người viết bản văn. Muốn hiểu Kinh Thánh một cách chân chính đòi hỏi sự chuyên cần của lý trí cũng như sự am hiểu về khoa chú giải. Từ chối tận dụng tri thức từ các nguồn liệu văn hóa, triết học hay khoa học sẽ làm cho tư duy thần học trở nên thô thiển. Thế giới tự nhiên cho thấy sự huy hoàng của Thiên Chúa nơi tạo thành (Sách Thiên Nhiên), do đó không thể tách biệt tri thức tự nhiên ra khỏi việc chú giải Kinh thánh. Augustine tóm tắt mối tương quan giữa lý trí và đức tin qua hai mệnh đề: “tôi tin để tôi hiểu; tôi hiểu để tôi tin” (Credo ut intellegam; Intellego ut credam).

Thông điệp “Đức Tin và Lý Trí” (Fides et ratio, 1998) của thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II cũng xác nhận một cách tích cực quan điểm của Augustine. Thông điệp này nhấn mạnh sự tương tác giữa đức tin và lý trí như là “hai cánh giúp cho thần trí con người vươn lên chiêm ngưỡng chân lý”. Đức tin mà thiếu lý trí thì dễ rơi vào nguy cơ thần thoại hóa và mê tín, hoặc những thái độ cực đoan như duy tín luận (fideism) và kinh điểm luận (biblicism). Cũng thế, một mình lý trí thì không thể nắm bắt chân lý tối hậu của tồn tại vốn được mạc khải và đón nhận qua đức tin. Đức Gioan Phaolô II khẳng định rằng “cuộc sống con người có ý nghĩa” và “chân lý siêu việt tồn tại khách quan” là tiêu chuẩn hướng dẫn cách thần học tiếp cận lý trí. Các chủ nghĩa tương đối cực đoan, chủ nghĩa hư vô, não trạng duy khoa học cùng với những nỗ lực giản lược giá trị con người thành bộ máy sản xuất và vị lợi đều bị chỉ trích. Thông điệp này chống lại các trào lưu bi quan hiện hành trong văn hóa hiện đại. Giống như Augustine, Thông điệp “Fides et Ratio” nhận ra sự tương tác thiết yếu giữa lý trí và đức tin để đạt đến chân lý tối hậu, xứng đáng cho nhân phẩm mà con người được tạo nên.

Luận đề ngôn ngữ về sự hài hòa giữa đức tin và lý trí của Augustine đã cung cấp một mô hình bền vững cho suy tư thần học xuyên suốt nhiều thế kỷ. Nhưng với những phát triển vượt bậc của khoa học tân thời thì mô hình này đã được cập nhật và thêm vào nhiều yếu tố mới. Tiềm năng mâu thuẫn giữa đức tin và lý trí không chỉ xuất hiện trong phạm vi chú giải Kinh Thánh mà còn lan ra đến lối giải thích sự can thiệp của Thiên Chúa vào thế giới vật lý, giữa chân lý khoa học và chân lý Kinh Thánh, giữa khoa học cơ khí và các khái niệm cổ điển về Thiên Chúa, cũng như giữa thuyết tiến hóa và nguồn gốc của sự sống hay tuổi của trái đất. Kế tiếp, chúng ta hãy sơ lược về các hệ quả của sự giao thoa giữa đức tin và khoa học để nhận ra niềm hy vọng cho tư duy thần học.

GIẢI THÍCH PHÉP LẠ VÀ QUY LUẬT VẬT LÝ

Khởi đầu từ thời Khai Sáng, tranh cãi về cách giải thích phép lạ và mức độ can thiệp của Thiên Chúa vào thế giới tự nhiên đã trở nên chủ đề chính yếu cho thần học. Từ giai đoạn Kinh Viện các thần học gia đã chuộng cách giải thích tự nhiên, tức là tìm nguyên nhân cho các biến dịch trong tự nhiên thay vì nại đến sự can thiệp của Thiên Chúa. Chỉ khi nào một biến cố vượt trên tài năng siêu việt của con người hay quyền lực của ma quỷ tác động lên thiên nhiên thì mới được xem là phép lạ. Người ta muốn biết Thiên Chúa điều hành mọi sự trong thế giới bằng phương pháp tự nhiên, siêu nhiên hay cả hai? Và đâu là “ranh giới” giữa tự nhiên và siêu nhiên? Đến thế kỷ XVII, sự gia tăng của tri thức khoa học giúp cho khả năng phân định phép lạ càng trở nên tinh vi. Sự tiến bộ nhanh chóng của khoa học đã chiếu phóng lên kỳ vọng rằng một khi mọi biến dịch trong thế giới có thể giải thích được thì “giả thiết Thiên Chúa” sẽ không cần thiết nữa.

Các học giả Kinh Viện đã khai triển một số học thuyết giải thích cách Thiên Chúa điều hành vũ trụ. Trước tiên, thuyết “siêu nhiên” (supernaturalism) cho rằng Thiên Chúa là nguyên nhân của mọi thay đổi và không phải tuân theo quy luật nào hết. Chủ thuyết này hoài nghi khả năng dùng khoa học và lý trí để giải thích sự biến dịch trong thế giới vật lý. Mặt khác, thuyết “ngẫu nhiên” (occasionalism) lý luận thông thoáng hơn khi cho rằng ý chí Thiên Chúa là nguyên nhân của mọi sự, nhưng mối liên kết giữa hậu quả và nguyên nhân thì lệ thuộc vào khả năng nhận thức của con người. Con người có thể nhận ra cách Thiên Chúa tác động lên vũ trụ qua sự vận hành thường xuyên của tự nhiên (cursus communis naturae).[4] Mọi sự kiện xảy ra trong thế giới đã được đặt định theo bản chất của vũ trụ để chúng phát triển theo lộ trình do Thiên Chúa muốn. Theo quan điểm này, Thiên Chúa vẫn là “nguyên nhân tất yếu”, nhưng bản chất của tự nhiên là “nguyên nhân thứ yếu” cho mọi biến dịch trong thế giới. Khoa học có sứ mệnh tiếp tục khám phá bản chất của tự nhiên để gia tăng tri thức con người về “nguyên nhân thứ yếu” hay “cursus communis naturae” do Thiên Chúa đặt ra.

Hệ quả quan trọng là thuyết “ngẫu nhiên” vừa giải thích phép lạ và vừa bảo vệ tầm quan trọng của nghiên cứu khoa học. Thiên Chúa làm bất cứ gì Ngài muốn, nhưng Thiên Chúa thường chọn giới hạn chính mình theo “cursus communis naturae,” vì thế con người có thể dựa trên nguyên tắc này để phân định phép lạ. Tuy nhiên, nguyên tắc này tiềm tàng một não trạng thực chứng, vì nó dùng công cụ của khoa học để phân biệt ranh giới giữa tự nhiên và siêu nhiên. Anh Giáo ở thế kỷ XVII, vì muốn thanh trừng đám phù thủy dùng quyền lực ma quỷ để đánh lừa con người, khẳng định rằng “giai đoạn phép lạ” đã chấm dứt sau thời các Tông Đồ. Lẽ dĩ nhiên khả năng di chuyển nhanh chóng của ma quỷ hay tài năng luyện kim của thợ bạc có thể gây ảo tưởng “phép lạ” đã xảy ra, nhưng liệu cách dùng lịch sử để phân định ranh giới giữa siêu nhiên và tự nhiên có còn hiệu lực một khi tư duy khoa học chuyển sang các mô hình khác không? Trong khi khoa học vẫn còn tiếp tục phát triển, thì thần học cần có một nhãn quan phổ quát hơn để giải thích quyền năng và tác động của Thiên Chúa trên thế giới vật lý. Nếu không muốn bị khai trừ khỏi các tự sự hiện đại thì thần học cần có một khái niệm về Thiên Chúa vừa là tác giả và là nguồn gốc tối hậu của mọi biến dịch mà khoa học còn đang khám phá. Thần học (theo-logos) căn bản là ngôn ngữ về Thiên Chúa, do đó nó cần phải liên tục cập nhật hóa qua cách đối thoại với các khám phá khoa học.

CHÂN LÝ KINH THÁNH VÀ CHÂN LÝ KHOA HỌC

Ngoài nhu cầu cập nhật hóa ngôn ngữ về Thiên Chúa, thần học còn phải cập nhật cách chú giải Kinh Thánh. Điều này được thấy rõ qua vụ án Galileo, vốn kéo dài từ khi Galileo bắt đầu giải thích thuyết vũ trụ nhật tâm của Copernicus (1613) cho đến khi ông bị kết án (1633). Gần một thế kỷ trước đó, Copernicus, một chức sắc giáo luật, xuất bản cuốn “Quỹ Đạo Vận Hành của Bầu Trời” (1543) dựa trên quan điểm mặt trời là trung tâm. Cuốn sách này được hiến tặng cho thánh Giáo Hoàng Phaolô III và tạo nên sự lôi cuốn nơi các lãnh đạo Giáo hội. Copernicus dùng chuyên môn thiên văn học của mình để cải tổ niên lịch, cho dù kinh nghiệm thường ngày con người không cảm thấy trái đất đang xoay. Quan điểm vũ trụ nhật tâm của Copernicus đi ngược lại với 2000 năm lịch sử thống trị bởi thiên văn học của Aristote cũng như quan điểm của Kinh thánh về phép lạ Giôsua làm cho mặt trời đứng yên.

Vấn đề của Galileo khởi đầu từ lá thư ông gửi đến công chúa Christina giải thích sự mâu thuẫn giữa thuyết vũ trụ nhật tâm và Kinh Thánh.[5] Galileo cho rằng cần phải chú giải Kinh Thánh dưới ánh sáng của tri thức khoa học, nhưng có lẽ vì sự ganh tỵ nào đó, thư của ông bị sửa đổi và xuyên tạc, cuối cùng đến tay ban Điều Tra Dị Giáo (The Inquisition). Năm 1616, chủ thuyết vũ trụ nhật tâm bị cho là sai lạc tín lý và sách của Copernicus bị liệt vào hàng “Sách Cấm” (Index) cho đến khi các sai lầm được chỉnh sửa. Công Đồng Trentô vốn đang bận tâm với sự tấn công của phong trào Cải Cách, đã cấm tất cả mọi chú giải Kinh Thánh đi ngược với thần học các giáo phụ. Nhưng Galileo muốn chứng tỏ lối chú giải dựa trên khám phá khoa học thì chính xác hơn là phương pháp Kinh Viện. Hồng Y Roberto Bellarmino, một vị có thế lực nhất trong Giáo hội thời đó, muốn nâng đỡ Galileo nhưng vẫn khuyên ông không nên quá giáo điều về thuyết vũ trụ nhật tâm, và chân lý của Kinh Thánh nên được giải thích cẩn thận hơn. Cách Galileo dùng thủy triều để minh họa sự xoay chuyển của trái đất thì chưa được thuyết phục cho lắm.

Chín năm trước khi vụ án xảy ra, Galileo xuất bản cuốn “Il Saggiatore” để dâng tặng cho người bạn mới được tấn phong Đức Giáo Hoàng Urbanô VIII (1623).  Vốn là người ủng hộ thuyết vũ trụ nhật tâm, Đức Urbanô VIII đồng ý để Galileo tiếp tục viết miễn sao là phải bao gồm lập luận Thiên Chúa là Đấng Toàn Tri, và con người không bao giờ có thể đạt đến mức độ chính xác tuyệt đối về cách Thiên Chúa điều hành thế giới tự nhiên. Sau đó, vì nạn dịch xảy ra, Galileo cho xuất bản tác phẩm “Đối Thoại về Hai Hệ Thống Vũ Trụ Chính Yếu (Dialogue Concerning the Two Chief World Systems, 1632) tại Florence. Cuốn sách này gây nên nhiều đàm tiếu ở Rôma, nhất là sự kiện Galileo đặt lý luận của Urbanô VIII vào miệng của “kẻ khờ” ở cuối sách. Đức Urban VIII nghĩ rằng mình bị đánh lừa, nổi giận và triệu tập Galileo về Rôma, cấm không được bàn luận về thuyết Copernicus. Galileo trình thư của Hồng Y Bellarmino cho phép ông tiếp tục sáng tác và giải bày rằng ông chỉ đang tìm cách khai triển thuyết vũ trụ nhật tâm cho dù chưa hoàn toàn tin vào nó.  Trong khi Galileo và ban Điều Tra Dị Giáo đang tìm một sự thỏa thuận, thì Đức Urbanô VIII ra lệnh tổ chức một phiên tòa và kết án Galileo “cố tình vi phạm” dị giáo, buộc phải công khai từ bỏ quan điểm vũ trụ nhật tâm và bị quản thúc tại tư gia (1633). Có ba vị Hồng Y không ký vào bản án này, vì cho rằng nó chỉ để dằn mặt Galileo chứ không thật sự muốn giải quyết mọi sự cho tận căn.

Điều kém may mắn là Galileo bị lôi cuốn vào cuộc tranh chấp giữa hai quan điểm về khoa học: thực nghiệm và công cụ. Quan điểm thực nghiệm cho rằng khoa học cung cấp tri thức chân thực về thế giới vật lý. Quan điểm “công cụ” xem khoa học như là cách giải thích tạm thời về hiện tượng trong khi tri thức con người còn đang tiến triển. Trong khi Copernicus và Galileo áp dụng quan điểm thực nghiệm thì Giáo quyền chưa sẵn sàng chấp nhận và thẳng tay gạt bỏ tiếng nói của Galileo. Cho dù buộc phải từ bỏ thuyết vũ trụ nhật tâm, nhưng khi ra khỏi phiên tòa Galileo tuyên bố là vẫn cảm thấy trái đất đang xoay. Lệnh cấm của Galileo đã không ngăn cản được những nỗ lực đối thoại giữa chân lý Kinh Thánh và chân lý khoa học trong các thế kỷ sau đó. Năm 1979, Đức Gioan Phaolô II triệu tập một ủy ban nghiên cứu vụ án Galileo và đã khám phá nhiều lỗi lầm chung quanh vụ án. Ủy ban đã củng cố nguyên tắc chú giải Kinh Thánh vốn giả định sự hài hòa giữa đức tin và khoa học mà Augustine và Galileo đã dùng. Vụ án Galileo cho thấy nếu thần học là nỗ lực suy tư về thế giới vốn được tạo thành bởi bàn tay huyền nhiệm của Thiên Chúa, thì thần học cần phải khiêm tốn đón nhận những thử thách mới từ khoa học, và tránh bị đóng băng trong các phạm trù tri thức cổ hủ.

“THỢ ĐỒNG HỒ” VÀ “THIẾT KẾ THÔNG MINH”

Khoa học cơ khí ở thế kỷ XVII đã giới thiệu mô hình vũ trụ như một chiếc đồng hồ vĩ đại với Thiên Chúa là “Thợ Đồng Hồ”. Mọi biến dịch và vận hành trong vũ trụ đều có thể được giải thích qua những chuỗi tác động tuân theo nguyên tắc cơ khí mà trí khôn có thể nhận ra. Khi mọi bí ẩn trong chiếc đồng hồ vũ trụ được giải mã thì sự hiện diện Thiên Chúa trong thế giới không cần nữa, vì Ngài chỉ là “Thượng đế từ cỗ máy” (Deus ex machina) vốn chỉ để giải thích khoảng trống mà khoa học chưa có thể lấp đầy được trong hiện tại. Thuyết nguyên tử cổ đại của Democritus được phục hồi để giải thích mọi thay đổi là do sự chuyển động của các nguyên tử tồn tại từ vĩnh cửu theo bản chất vật lý của chúng. Khái niệm “Thợ Đồng Hồ” tinh vi là nỗ lực cập nhật hóa ngôn ngữ thần học trong thế giới dựa trên khoa học cơ khí. Tuy nhiên, nếu mọi sự vận chuyển trong thế giới được tất định bởi năng lực và khối lượng có sẵn, thì sẽ không có chỗ cho ý chí tự do cũng như trách nhiệm luân lý nơi con người. Hệ quả của khái niệm “Thợ Đồng Hồ” là một Thiên Chúa “vắng mặt” và một não trạng duy vật, cắt bỏ mọi thực tại phi-vật chất và thiêng liêng mà con người đang tìm kiếm.

Trước nguy cơ này, nhiều học giả Anh quốc ở thế kỷ XVII đã phản hồi. Robert Boyle (1627–1691) khẳng định rằng khoa học gia hay triết gia phải là tư tế của “Sách Thiên Nhiên” không khác gì hàng tư tế của Kinh Thánh. Boyle nghiên cứu các hình thức phép lạ và sự bí ẩn của phép luyện kim cũng như cho rằng các sự kiện này sẽ lôi cuốn thiên thần và tạo cơ hội để thông tri với con người. Boyle dùng cơ cấu vận hành của hệ mặt trời như chứng cớ cho thiết kế thánh thiêng và sự quan phòng liên tục của Thiên Chúa. Richard Bently (1662-1742) tiếp tục khai triển viễn tượng khoa học của Boyle và hỗ trợ cho luận đề dùng phát minh khoa học để chống lại chủ nghĩa vô thần.[6] Sang các thế kỷ XVIII-XIX phản ứng về triết học cơ khí mang tính hộ giáo và có hệ thống hơn. Luận cứ thiết kế của Tôma dựa trên nguyên nhân cứu cánh (telos) giờ đây được chuyển qua sự điều hành chặt chẽ của vũ trụ mà khoa học đang khám phá. Tác phẩm “Philosophiæ Naturalis Principia Mathematica” của Newton củng cố chứng cớ về sự tồn tại của Thiên Chúa nơi cuốn “Sách Thiên Nhiên”. Bộ sách “Bridgewater Treatises[7] của Hội Hoàng Gia Anh cũng thiết lập một luận cứ “thiết kế” dựa trên cách kết nối khoa học với toán học. Cuốn “Natural Theology” của William Paley xem các thuộc tính “nhân từ”, “hiệp nhất”, “quan phòng” là chứng cớ cho sự tồn tại của Thiên Chúa.[8]

Tuy nhiên, luận cứ thiết kế của các nhà thần học tự nhiên ở Anh quốc vẫn chưa thỏa mãn được các yêu sách của thần học Kitô chính thống. Khái niệm “Thợ Đồng Hồ” loại bỏ hoàn toàn khía cạnh luân lý cùng với tương quan cá nhân và nhiều thuộc tính khác về Thiên Chúa. Khuynh hướng “nhân cách hóa” của Paley còn mơ hồ về bản thể luận vốn là nền tảng của ngôn ngữ loại suy trong luận cứ thiết kế. Hơn nữa, khả năng nhận thức của con người về “thiết kế” hay “trật tự” trong thế giới thì khó tránh bị ảnh hưởng của các yếu tố tâm lý và xã hội. Chúng ta không có một nhãn quan tổng thể và khách quan để so sánh thế giới con người với một thế giới nào khác. Cho dù hiệu lực của luận cứ thiết kế bị bào mòn, nhưng cách nào đó, nó đã đáp ứng được sự tò mò về ảnh hưởng của khám phá khoa học trên tôn giáo, và trấn an phần nào sự lo âu về nguy cơ vô thần trong thế kỷ XVIII. Đóng góp của thần học tự nhiên và triết học cơ khí là sự chuẩn bị thần học cho sự tiếp nhận thuyết tiến hóa của Darwin trong thế kỷ kế tiếp.

Một phát triển gần đây hơn được gọi là “Thiết Kế Thông Minh” (Intelligent Design, ID), vốn kết nối nguồn gốc và phác họa của vũ trụ với tính đa dạng của sự sống[9]. Đầu thế kỷ XX, “Thiết Kế Thông Minh” là cách biện minh cho tính hợp lý của niềm tin về sự tồn tại của Thiên Chúa như là “Trí Thông Minh” tối cao. Học thuyết này khẳng định rằng sự kiện xảy ra trong vũ trụ không thể mãi giải thích bằng các nguyên nhân đệ nhị (thứ yếu), do đó, cuối cùng chúng ta phải nại đến nguyên nhân đệ nhất (tất yếu). Nhưng nguyên nhân đệ nhất vốn tự bản chất của nó là không thể thông tri được bởi lý trí (tạo dựng từ hư vô), và dùng nguyên nhân đệ nhị thì cũng như không dùng gì cả. Do đó, Thiết Kế Thông Minh lắp vào khoảng trống này bằng cách minh chứng cho tính hợp lý của nguyên nhân đệ nhất. Tuy nhiên, “Thiết Kế Thông Minh” vẫn còn mơ hồ trong cách nó loại trừ nguyên nhân đệ nhị. Triết học tự nhiên không xem nguyên nhân đệ nhị như là một giải thích cho thực tại mà chỉ là “tên gọi” (ngôn ngữ loại suy) cho biến cố mà chúng ta chưa hiểu hoàn toàn. Sự mâu thuẫn nội tại này đưa đến hậu quả là luận cứ ID bị xem là vô ích. Nói cho cùng, trí khôn chỉ có thể nắm bắt nguyên nhân đệ nhị, vậy khi “Thiết Kế Thông Minh” thay thế cho nguyên nhân đệ nhất tức là nó đang bỏ rơi cuộc truy tìm cách giải thích tận nguồn của nguyên nhân tính. Đây chính là lý do mà các nhà thần học thời Trung Cổ thường chọn luận cứ về bản chất tự nhiên của thụ tạo.

ĐỊA CHẤN HỌC VÀ “CÁC NGÀY” TRONG TẠO DỰNG

Thời Trung Cổ, không có lý do chính đáng nào để con người hoài nghi trái đất chỉ khoảng vài ngàn năm tuổi. Kinh Thánh là bản văn cổ xưa nhất, và không có chứng cớ nào khác mâu thuẫn với niên lịch của các sự kiện trong Cựu Ước. Trong thế giới khép kín như thế, tuổi của trái đất hay vũ trụ thì cũng tương đương với thời gian con người bắt đầu xuất hiện. Nhưng đến thế kỷ XVII với sự bùng nổ của khoa học tự nhiên, không chỉ khoa học gia, triết gia mà cả hàng giáo phẩm bắt đầu tò mò, muốn tìm hiểu về tuổi và nguồn gốc của vũ trụ. Giám mục Anh giáo James Ussher (1581-1656) cẩn thận cộng lại tất cả tuổi dài của các tổ phụ, các triều đại vua chúa, các ngôn sứ trong Cựu Ước, giai đoạn Tân Ước và Giáo hội Kitô cho đến hiện thời. Ussher không chỉ kết luận tuổi của trái đất là 6000 năm mà còn khẳng định là dựa trên các dữ liệu thiên văn, tạo dựng đã xảy ra vào đêm tối trước ngày 23 tháng 10 năm 4004 BC.[10]

Như thế nhu cầu tìm hiểu địa chấn đã củng cố mối liên kết giữa Kinh Thánh với tri thức khoa học. Các nhà khảo cổ giải thích sự kiện hóa thạch và tàn tích của sự sống nơi các tầng địa chất vốn bình thường nằm theo chiều ngang và bị đẩy lên do tác động nào đó trong quá khứ. Từ đó, thần học gia và nhà chú giải Kinh Thánh liên kết ngay đến biến cố Đại Hồng thủy. Thomas Burnet (1635-1715) giải thích “sáu tầng địa chấn” mà các nhà khảo cổ tìm thấy là dấu vết của “sáu ngày tạo dựng” trong Sách Sáng Thế.[11] Edmond Halley cho rằng nguyên nhân của vụ đại lụt Nôê là do một sao chổi làm cho trái đất bị nghiêng khỏi trục quay của nó.[12] John Woodward giải thích vụ lụt Nôê có thể được chứng minh bằng những tàn tích hóa thạch mà khảo cổ học địa chấn đã tìm ra. [13]

Ở thế kỷ XVIII, quan điểm địa chấn học có thể giải thích cách khoa học về “các ngày của Sáng Thế” cũng đã ảnh hưởng đến sự ra đời của phương pháp “chú giải tiền sử” (Urgeschichte) ở Đức Quốc. Các nhà chú giải này cho rằng Kinh Thánh đã được hình thành do sự đan xen của các “tầng lớp” văn hóa và truyền thống tôn giáo cổ đại. Mục đích của chú giải là “khai quật” các tầng lớp xuất xứ và nhận ra dòng chảy của những truyền thống văn hóa được đan xen qua mạch văn của Kinh Thánh. Từ đó họ đề nghị thuyết nguồn liệu JEPD[14] để giải thích sự thành hình của sách Ngũ Kinh. Phương pháp chú giải này đòi hỏi một trình độ học thuật cao, vì thế đã gây nên phản ứng tiêu cực nơi các tín đồ bình dân ít học vốn chỉ muốn tìm những ý nghĩa từ nguyên và đơn sơ của bản văn Kinh Thánh. Sự phản biện này đã cho ra đời chủ nghĩa duy cơ bản (fundamentalism) vốn đã trở thành nền tảng tư duy cho thần học bảo thủ nơi giáo phái Tin Lành ngày nay.

Ngoài ra, vấn đề nguồn gốc và tuổi của vũ trụ cũng được tranh luận. Các Giáo phụ và học giả thời Trung Cổ dựa trên giáo thuyết “tạo dựng từ hư vô” (creatio ex nihilo) để loại bỏ quan điểm vật chất có từ vĩnh cửu vốn cho rằng thời gian trước Ađam là rất ngắn, không đáng quan tâm. Nhưng khoa học nhận ra rằng vũ trụ thì già hơn trái đất nhiều. Trong thế kỷ XX, tranh luận về nguồn gốc của vũ trụ đã quy tụ quanh hai giả thuyết đối nghịch nhau: thuyết “Big Bang” của linh mục Georges Lemaitre và thuyết “trạng thái ổn định” của Fred Hoyle. Thuyết “Big Bang” được yêu chuộng hơn vì nó giả định mọi sự xuất phát từ vụ nổ tiên khởi (gần như thuyết Tạo Dựng). Hơn nữa, nếu vũ trụ còn đang giãn nở do năng lượng khởi đầu từ “Big Bang” thì trên lý thuyết, khoa học có thể tính ngược thời gian của sự giãn nở để biết được tuổi của vũ trụ. Đức Giáo Hoàng Piô XII (1951) chấp nhận thuyết “Big Bang” dựa trên sự hài hòa của nó với khái niệm “tạo dựng từ hư vô”. Một khi tri thức về chiều kích của vũ trụ càng gia tăng, thì quan điểm quy nhân của triết học tự nhiên thời Trung Cổ mất dần hiệu lực, và suy tư thần học hướng về những yếu tố vốn bảo trì sự quân bình môi sinh mong manh trong vũ trụ.

THUYẾT TIẾN HÓA VÀ NGUỒN GỐC SỰ SỐNG

Giống như Galileo, Charles Darwin đã tạo nên một khúc quanh lịch sử về mối tương quan giữa tôn giáo và khoa học. Hai tác phẩm nổi danh của Darwin, “Nguồn Gốc Các Loài” (1859) và “Hậu Duệ Của Loài Người” (1871) đã gây nên nhiều làn sóng phản ứng phức tạp. Thuyết tiến hóa giả định ba yếu tố nền tảng: (1) muôn loài sinh vật tồn tại ngày nay đều có cùng tổ tiên (common ancestry), (2) sự phân tách giữa các loài là do biến đổi ngẫu nhiên (random variation), và (3) khả năng thích ứng với tự nhiên truyền lại qua các thế hệ là thiết yếu cho “sự sinh tồn của đối tượng phù hợp nhất” (survival of the fittest) hay còn gọi là sự chọn lựa tự nhiên (natural selection). Quan điểm tiến hóa thì không xa lạ trong giai đoạn tân thời, nhưng cách mà Darwin áp dụng nó để giải thích nguồn gốc của con người đã gây nên nhiều phản hồi nơi thần học Kitô giáo.

Một số nhà chú giải Anh quốc chống lại thuyết tiến hóa. Thế kỷ XIX đã quen thuộc với luận cứ thiết kế nhưng chưa sẵn sàng chấp nhận khái niệm biến đổi ngẫu nhiên và chọn lựa tự nhiên. William Paley (1802) lý luận rằng sự thích ứng của muôn loài sinh vật đối với thiên nhiên là dấu hiệu của thiết kế nơi Trí Tuệ Khôn Ngoan. Thiên Chúa không cần phải tạo nên từng cá thể của mỗi loài, nhưng chỉ đặt vào chúng khả năng thích ứng với thiên nhiên để chúng tiếp tục phát triển. Charles Hodge (1797-1878) lên án giả định vô thần của thuyết tiến hóa và cách nó loại bỏ khía cạnh luân lý trong tương quan nhân vị với Thiên Chúa. Nếu thiên nhiên bị điều phối bởi bạo lực và các loài dã thú tiêu diệt lẫn nhau để sống, thì nguyên tắc “chọn lựa tự nhiên” không thể là chứng cớ cho một Thiên Chúa nhân từ và có lòng thương xót vốn là nền tảng cho luân lý. Công Đồng Vatican I (1870) lên án chủ nghĩa duy vật tiềm tàng trong thuyết tiến hóa vì nguồn gốc thấp kém của thú vật thì không xứng đáng cho nhân phẩm của con người vốn được tạo nên qua hình ảnh của Thiên Chúa.

Mặc khác, cho dù con người thật sự tiến hóa từ loài vật thì loài người vẫn không kém là “người”. Một số học giả Victorian nhận ra nơi thuyết tiến hóa tiềm tàng một nền tảng sinh học cho quan điểm cấp tiến của họ về tương quan xã hội và chính trị. Thuyết tiến hóa cũng có thể được dùng để biện hộ cho sự “chọn lựa tự nhiên” và khả năng “sinh tồn của đối tượng phù hợp nhất” trong chủ nghĩa thực dân và xã hội giai cấp. Nhiều học giả đề nghị thuyết “Ngày-Tuổi” (Day-Age theory) cho rằng mỗi ngày của tạo dựng đại diện cho một giai đoạn tiến hóa.[15] Đến cuối của thể kỷ XIX, chủ thuyết tiến hóa sinh học hầu hết được chấp nhận, tuy cơ chế “chọn lựa tự nhiên” vẫn còn gặp nhiều chống đối. Trong phạm vi thần học, thuyết tiến hóa hữu thần của Teithard de Chardin (1881-1955) khẳng định Thần Khí đang dẫn dắt quá trình tiến hóa về điểm cùng kết “Omega Point” trong sự hài hòa hoàn hảo với Đấng Tạo Hóa.

Tuy nhiên, không phải thần học Kitô giáo nào cũng thân thiện với thuyết tiến hóa, nhất là từ các giáo phái Tin Lành bảo thủ. Nhóm Duy Cơ Bản xuất hiện giữa các năm 1910-1915 ở Hoa Kỳ, qua vụ án “Scopes Monkey” (1925), đã phản đối mọi nỗ lực giải thích Kinh Thánh từ nhãn quan khoa học.[16] Nhóm này tuyên truyền “chủ thuyết thiên niên” và nhắc lại lời các triên tri về hình phạt Thiên Chúa sẽ giáng xuống trên con người trong ngày tận thế sắp đến. Họ cho rằng chúng ta đang sống ở giai đoạn thứ sáu của lịch sử, và giai đoạn thứ bảy sẽ đến một khi thiên niên thứ II chấm dứt. Họ dùng sách Khải Huyền để tính chính xác ngày tận thế và gây ra cảm thức bất an về sự suy đồi xã hội, về quyền lực của Satan đang ẩn nấu dưới các trào lưu văn hóa, về tri thức và lý tính hiện đại cũng như cách mạng kỹ nghệ và làn sóng di dân.

Nói chung, thuyết tiến hóa có thể trở nên công cụ chia cắt hay thăng tiến xã hội. Trong khi giới Tin Lành bảo thủ cho rằng Satan dùng hóa thạch để đánh lừa con người khỏi niềm tin duy cơ bản, thì Giáo hội Công giáo cảnh báo về các mặt nạ suy đồi của chủ nghĩa duy vật và hưởng thụ vật chất đang tiềm tàng trong thuyết tiến hóa. Đức Giáo Hoàng Pius XII (1950) chấp nhận một phần của thuyết tiến hóa, và Đức Gioan Phaolô II (1996) tuyên bố tiến hóa không còn là một giả thuyết nữa. Cả hai vị giáo hoàng này đều chống lại não trạng duy vật và khẳng định rằng sự tồn tại của linh hồn thì không là sản phẩm của lịch sử tiến hóa.

NIỀM HY VỌNG CHO TƯ DUY THẦN HỌC

Khi đương đầu với những thử thách đến từ khám phá khoa học, thần học không thể tránh nêu lên các câu hỏi tối hậu về bản chất của vũ trụ vật lý. Liệu những tiến bộ khoa học có phải là sự minh chứng cho khả năng con người vượt lên trên hay tách khỏi vũ trụ vật chất vô tri không? Hay tồn tại chỉ tiếp tục là những phần của một tổng thể vật lý? Và nếu chúng ta chấp nhận quan điểm tôn giáo về sự tồn tại của một Đấng Tối Cao, thì Đấng ấy có hoàn toàn tách biệt khỏi thiên nhiên, hay chỉ như một con nhện dệt nên mạng lưới vũ trụ bằng vật chất xuất phát từ bản thân mình? Vũ trụ có cần Thượng Đế để xuất hiện và tiếp tục tồn tại không?

Các khám phá khoa học đưa đến ảo tưởng rằng con người càng ngày càng vượt trên những giới hạn vật lý, nhưng thật ra thì chúng ta chỉ đơn giản vượt trên những hiện hữu vật lý khác mà thôi. Nhà hoá học biết chính xác những yếu tố nào sẽ phản ứng trong các trường hợp nhất định, cách kết hợp những hóa chất nào để tạo thành các hợp chất mới, hoặc làm cho phản ứng hóa học xảy ra sớm hơn hay chậm lại. Nhưng tri thức này không thể hiện thực nếu không có sự sắp xếp định hướng được thiết lập sẵn trong tự nhiên. Vũ trụ chúng ta đang sống là hợp lý và có mục đích (telos), và khi nhận ra như thế thì mọi hoạt động của con người trở thành nghệ thuật hài hòa với thiên nhiên. Bởi vì, nghệ thuật là một sự bắt chước cách thức mà thiên nhiên hoạt động. Nếu việc xây dựng một ngôi nhà của con người là hành động có mục đích, thì chẳng lẽ những con chim yến xây tổ của chúng khi tới mùa sinh sản chỉ là một điều ngẫu nhiên sao?[17]

Khám phá các quy luật điều khiển tự nhiên giúp con người hiểu thêm về nguyên nhân-hậu quả và khả năng tiên đoán sự vận hành của thế giới, nhưng điều này không có nghĩa là thế giới phải xuất hiện như cách thức mà chúng ta hiểu. Qua đức tin, chúng ta có thể hướng đến cái vô hạn nhờ vào sự tự do và ý hướng thiêng liêng của con người. Do đó, muốn tìm hiểu vũ trụ cho tận gốc, chúng ta không thể loại trừ viễn tượng tôn giáo về cứu cánh tối hậu của tự nhiên.[18] Tri thức khoa học càng ngày càng tiến bộ thì ý thức con người về trạng thái giới hạn và tùy thuộc của mình vào thế giới vật lý càng gia tăng. Những “genes” đã tiến hóa qua hàng triệu năm trong vũ trụ để cuối cùng trở thành các yếu tố mặc định cho cơ cấu thể lý của chúng ta. Vì là “đứa con của tự nhiên”, con người cũng sở hữu những nét gì đó có thể được tìm thấy trong tự nhiên. Nếu cuộc sống con người có mục đích thì “telos” cũng phải là một phần của tự nhiên. Phủ nhận điều đó là xem sự tồn tại của thế giới chỉ có hệ quả mà không có nguyên nhân.

Mục tiêu của khoa học là tìm cho ra trật tự tiềm tàng từ sự hỗn loạn và ngẫu nhiên để giải thích cho sự tồn tại của thế giới. Hơn nữa, nếu khoa học loại trừ cứu cánh, thì không có cách nào giải thích cho sự quân bình vốn làm cho vũ trụ tiếp tục tồn tại. Cho dù khoa học giả định sự sống phát triển một cách ngẫu nhiên, nhưng khoa học vẫn không thể loại trừ hoàn toàn sự can thiệp từ bên ngoài để có sự sống (Michael J. Behe).[19] Chúng ta không thể hiểu tại sao một Thiên Chúa phải tận dụng cả bộ máy phức tạp và bao la, gồm vô số thiên hà chỉ để tạo nên một hành tinh có khả năng bảo trì sự sống, vốn chỉ là một khoảnh khắc nhỏ nhoi so với khoảng thời gian thành hình của vũ trụ. Trong khi khoa học còn đang tiếp tục khám phá về nhiều “trái đất” khác có dấu hiệu nuôi dưỡng sự sống thì chúng ta có thể nghĩ về quyền năng vô hạn của Thiên Chúa mà khoa học chưa nắm bắt được hết. Vô số loại “virus” hay “genes” đơn sơ nhất, tuy chưa phát triển hoàn hảo, nhưng được ân ban khả năng biến dạng đột phá ngoài sức tưởng tượng của con người.

Vũ trụ chỉ là một tiềm thể biến dạng theo thời gian. Cho dù vũ trụ giãn nở bao nhiêu đi nữa, hay cho dù có mất hàng tỷ năm để ánh sáng đến với chúng ta, thì vũ trụ vẫn không bao giờ trở thành Thiên Chúa được. Chúng ta có thể kéo dài cán cây chổi ra bao nhiêu đi nữa, thì tự nó vẫn sẽ không bao giờ quét sân được. Những chiều kích vĩ mô và mênh mông của vô số các vì sao và thiên hà càng cho ta thấy rõ hơn ý nghĩa của sự toàn năng và vĩ đại của Thiên Chúa. Cho dù nhà khoa học vũ trụ có thể mê hoặc óc tưởng tượng của con người bằng những dãy số dài đến vô tận, thì thần học vẫn có thể gạt qua một bên những dãy số rối rắm và nêu lên câu hỏi: Đâu là nguyên nhân tác thành tối hậu mà nhờ đó vũ trụ có thể xuất hiện? Nếu vũ trụ là một tổng thể tùy thuộc, bất tất và nhận sự tồn tại của nó từ cái gì khác, thì chúng ta không thể giải thích gì hết về vũ trụ khi chỉ bàn về chiều kích vĩ đại của các phần tử trong vũ trụ. Gia tăng các con số chỉ cho thấy sự tùy thuộc chứ không chứng minh được tính độc lập của vũ trụ, cũng như chúng ta không thể trả hết nợ khi tiếp tục vay thêm nợ mới.

Cho dù ngôi nhà trái đất của con người chỉ là một hành tinh nhỏ bé so với chiều kích vĩ đại của vũ trụ, nhưng con người vẫn giữ một vị thế đặc biệt giữa muôn loài thụ tạo. Sự sống cho thấy vai trò ưu việt của con người trên các loài thụ tạo khác. Khó mà lý giải một cách đầy đủ về nguồn gốc của sự sống đầu tiên, nếu ta không giả định sự tồn tại của một nguyên nhân thông minh nào đó. Nguồn gốc của thân xác có thể giải thích bằng quá trình tiến hóa, nhưng chúng ta vẫn không thể tiếp tục giải thích như thế về nguồn gốc của bản tính thiêng liêng và phi-vật chất của linh hồn. Thật vậy, chính linh hồn làm cho con người hiểu biết, yêu mến, chọn lựa cách tự do, và tách biệt con người ra khỏi mọi phần còn lại của thụ tạo. Trí thông minh giúp con người đào sâu vào những bí ẩn của thiên nhiên, thấu hiểu các hoạt động của vũ trụ cũng như thuần hóa các năng lực tự nhiên nhằm phục vụ cho mục đích của mình. Cho dù vũ trụ là bao la hay vĩ đại bao nhiêu đi nữa, thì con người vẫn có thể “nhét” cả vũ trụ vào trong cái đầu nhỏ nhoi của mình. Thiên Chúa đã mặc định cho con người khả năng hiểu biết và yêu mến Đấng tạo nên mình. Bộ máy vũ trụ bao la cách nào đó đang hỗ trợ cho sự sống và cùng đích của con người. Liệu chúng ta có thể nói mãi về cùng đích tự nhiên của con người mà không chạm đến cùng đích siêu nhiên? Công đồng Vatican II khẳng định rằng động lực của tạo dựng vũ trụ là cứu cánh mà thụ tạo sẽ hoàn thành. Nếu sự hoàn hảo của thụ tạo là được thông dự vào sự hoàn hảo của Thiên Chúa, thì hành vi tạo dựng là việc thông truyền sự thiện hảo của Người. Với bản tính tốt lành của mình, Thiên Chúa muốn tỏ lộ và thông truyền sự thiện hảo của Người cho mọi thụ tạo.

KẾT LUẬN

Thánh Augustine cho rằng vũ trụ là một tác phẩm nghệ thuật mà vị Nghệ Gia “Vĩ Đại” đang trình diễn trước mắt chúng ta. Nghệ thuật sống động này vẫn còn đang tiếp diễn và minh họa cách tổng thể sự sống của muôn loài sinh vật qua lịch sử. Tiến hóa là những bước nhảy từ một dạng thức sự sống đơn sơ ra các biến dạng khác theo những khuynh hướng cố định, rồi cũng bị phân tán qua thời gian và chỉ có vài phần tử tiếp tục tồn tại. Từ giây phút thành hình của đơn bào đầu tiên cho đến sự sống của loài người, tất cả đều chỉ thuộc cùng một cung điệu của “bài thơ lịch sử” mà thôi. Vũ trụ cho ta bài học quý giá về tính toàn năng, toàn tri, bao la và sáng tạo của Thiên Chúa, nhưng con người thì quá nhỏ bé so với một vũ trụ quá bao la, làm sao có thể tin rằng Thiên Chúa vẫn chú tâm đến chúng ta? Tất cả tùy thuộc vào cách mà chúng ta “hiểu” Thiên Chúa là Đấng Vĩ Đại như thế nào. Nếu trí thông minh con người là khả năng thấu hiểu chi tiết, thì đối với một Trí Tuệ hoàn hảo tuyệt đối bao nhiêu sợi tóc trên đầu của chúng ta hay bao nhiêu con chim én rơi xuống đất cũng không thể thoát khỏi sự lưu tâm của Người. Sự huyền diệu của vũ trụ ở mức độ vi mô lẫn vĩ mô cho ta một cảm thức khiêm tốn lành mạnh và đánh thức lòng khao khát về sự sống vĩnh hằng. Hành trình “đức tin tìm kiếm sự hiểu biết” không thể mãi bị đóng khung trong viện bảo tàng của các phạm trù triết học cổ kính, nhưng phải đối thoại với tri thức khoa học vốn đang được cập nhật hóa liên tục. Sự giao thoa giữa niềm tin tôn giáo và tri thức khoa học đã nhiều lần mở rộng vòng tròn giải thích giữa hai trục “tin để hiểu” và “hiểu để tin” trong quá khứ, thì nó cũng sẽ tiếp tục là niềm hy vọng cho tư duy thần học trong thế giới chúng ta ngày nay.



[1] x.(https://www.brainyquote.com/quotes/thales_185039). Truy cập 20/2/2025

[2] x. (https://wyomingcatholic.edu/wp-content/uploads/dante-01-inferno.pdf). Truy cập 20/2/25

[3] Các tác phẩm tiêu biểu: “A History of Conflict between Religion and Science” (John William Draper, 1874), “The Warfare of Science” (Andrew Dickson White, 1876), “A History of the Warfare of Science with Theology in Christendom” (Andrew Dickson White, 1896).

[4] x. (https://quizlet.com/701433084/philosophy-flash-cards/ ). Truy cập 2/1/2025.

[5] x. (https://web.stanford.edu/~jsabol/certainty/readings/Galileo-LetterDuchessChristina.pdf). Truy cập 2/3/2025.

[6] Richard-Bentley. Dissertation upon the Epistles of Phalaris (1699).

[7] Bridgewater. The Bridgewater Treatises on the Power, Wisdom and Goodness of God, As Manifested in the Creation. Treatise 1-9 (1923).

[8] William Paley. Natural Theology or Evidences of the Existence and Attributes of the Deity (1802).

[9] x. (https://intelligentdesign.org/whatisid/). Truy cập 3/1/2025.

[10] James Ussher. Annals of the World (1650).

[11] Thomas Burnet. The Sacred Theory of the Earth. Delhi open book, 2021. (Bản gốc Latin 1861)

[12] Edmond Halley: Genius in eclipse. by Colin Alistair, London : Macdonald, 1970)

[13] x. (https://en.wikipedia.org/wiki/John_Woodward_naturalist). Truy cập 12/3/2025.

[14] Đây là “Thuyết Nguồn Liệu” (Sources Theory) do Julius Wellhausen và một nhóm học giả trong các thể kỷ 17-19 khai triển để giải thích về bốn nguồn liệu của sách Ngũ Kinh: "J" (Jahwist), "E" (Elohist), "D" (Deuteronomist), and "P" (Priestly).

[15] x. (https://answersingenesis.org/genesis/gap-theory/). Truy cập 23/3/2025.

[16] x. (https://en.wikipedia.org/wiki/Scopes_trial). Truy cập ngày 21/3/25

[17] Alan Wolter, Cosmology (Quincy University, Il., 1976).

[18] Joseph Tân Nguyễn, Triết học Thiên nhiên (NXB Đồng Nai, 2021)

[19] Michael J. Behe. Darwin's Black Box: The Biochemical Challenge to Evolution. Free Press, New York, 2001

Chia sẻ

Chưa có Đánh giá/Bình luận nào được đăng.

Hãy trở thành người đầu tiên đóng góp nội dung cho Bài viết này.