Skip to content
Main Banner

THÁNH AUGUSTINÔ: MỘT CON TIM THAO THỨC…

BTT HOCVIEN OFMVN
2025-09-29 11:50 UTC+7 60

 

THÁNH AUGUSTINÔ: MỘT CON TIM THAO THỨC…

Joseph Tân Nguyễn, OFM

 

Cách đây vài tháng, trong bài chào mừng đám đông đang chờ đón ngài trước điện Vatican, Đức Tân Giáo hoàng Lêô XIV có nói: “Với anh chị em, tôi là Giám Mục, cùng anh chị em tôi là một Kitô hữu…”  Là một tu sĩ dòng Thánh Augustinô, Đức Lêô XIV đã trích dẫn bài giảng kỷ niệm ngày vị thánh được truyền chức Giám mục (395). Nguyên văn câu của Augustinô là: “Với anh chị em tôi là Giám Mục, cùng anh chị em tôi là một Kitô hữu… Điều trước làm cho tôi run sợ, điều sau mang lại niềm an ủi. Điều trước là danh xưng của trách vụ, điều sau là danh xưng của ân sủng; điều trước liên hệ đến hiểm nguy, điều sau liên hệ đến ơn cứu độ…” (Bài giảng 340, §1).

Thánh Augustinô cảm thấy “run sợ” và nhận ra “hiểm nguy” trong sứ mệnh giám mục là vì ngài mới viết xong cuốn Tự Thú, và trong tâm trí ngài còn ghi khắc những ngỏ cụt của tội lỗi cũng như những cơ hội mà Thiên Chúa đã dẫn dắt ngài trên hành trình suốt 45 năm trước đó. Cuộc đời ngài là một hành trình của một linh hồn, từ nhận thức về tội lỗi, qua đấu tranh trí tuệ và tâm linh, đạt đến sự hoán cải nhờ ân sủng, và cuối cùng là chiêm ngắm Thiên Chúa trong ánh sáng vĩnh cửu. Chính sự chân thành và mở lòng tin tưởng vào độc giả đã làm cho Augustinô vẫn còn giữ được sức mạnh trí thức. Ngài thu hút cả dân ngoại lẫn Kitô hữu, cả triết gia lẫn thần học gia, buộc họ phải đối diện với tư tưởng và con người của ngài,

Tuy nhiên, không chỉ vì tài năng thiên phú về trí tuệ mà Augustinô được ngưỡng mộ đến thế. Hành trình cuộc đời ngài, dù cuối cùng chiến thắng vẻ vang, lại phản ánh cuộc sống của nhiều người vấp ngã trên đường đời, trong khi khao khát tìm kiếm ý nghĩa cho sự hiện hữu của mình. Suy tư của ngài khởi đầu với những ký ức rất trần tục, qua tài năng biện chứng sắc sảo và văn sĩ kiệt xuất, tất cả đã dệt nên một tấm thảm thần học đầy mầu sắc phong phú. Chúng ta đồng cảm và nhìn thấy chính mình qua những giằng co, kiếm tìm mục đích và chân lý mà Augustinô đã trải qua. Nhiều thế hệ Kitô hữu bị lay động bởi lời cầu nguyện sâu sắc: “Chúa đã dựng nên chúng con cho Ngài, và tâm hồn chúng con còn khắc khoải cho đến khi nghỉ yên trong Ngài” (Tự Thú).  Bài này sẽ tìm hiểu những khúc quanh trên hành trình Augustinô tìm kiếm Thiên Chúa qua các tác phẩm ngài để lại.

Khởi điểm của hành trình

Augustinô, sống trong bối cảnh đã được Kitô hóa rộng rãi, nhưng lúc đầu lại khước từ Kitô giáo. Chỉ sau nhiều năm lạc lối ngài mới tìm thấy con đường từ thế tục đến Kitô giáo. Vậy nên suy tư thần học của ngài trước hết bắt nguồn từ gốc Latinh, giáo dục và văn hóa của ngài và này sinh từ một thế giới đầy biến động. Dù sống trong thời hoàng kim của các giáo phụ, Augustinô vẫn phải vượt qua ba khủng hoảng: khủng hoảng đời sống cá nhân, khủng hoảng của Giáo hội, và khủng hoảng của đế quốc.

Sinh ngày 13 tháng 11 năm 354, Augustinô lớn lên trong một gia đình trung lưu tại Thagaste, một thị trấn nhỏ ở Bắc Phi, nay thuộc Algeria. Cha ngài, Patricius, là người ngoại giáo, một viên chức trong chính quyền địa phương và đặt nhiều kỳ vọng vào Augustinô trở thành một người có học thức cũng như cuộc sống tốt đẹp hơn. Nhưng Augustinô lại mang trong mình một tinh thần phản kháng, khiến giữa cha và con nảy sinh bất hòa. Mẹ ngài, Monica, là một Kitô hữu sùng đạo, không ngừng truyền đạt đức tin cho con cái, Với lòng đạo đức bền bỉ, Monica không ngừng hy vọng rằng một ngày nào đó Augustinô sẽ hiến dâng đời mình cho Thiên Chúa, dù lời van nài của bà thường rơi vào thinh lặng.

Augustinô có một anh trai và một chị gái và có lẽ còn những người em khác mà chúng ta hầu như không biết gì. Nhưng Augustinô là người được gia đình, đặc biệt là người mẹ, dồn hết tình thương. Năm 12 tuổi, ngài được gửi đến học ở Maudauros trong ba năm. Thời trẻ lại ghét cay ghét đắng việc học, có môn ngài thấy quá khó, có môn lại vô nghĩa. Ở bậc tiểu học, ngài ham chơi hơn học, ngài thường bị phạt ở trường. Về sau, ngài đã suy ngẫm lại chuyện đó, “Tôi ghét phải học, và tôi bị ép phải học” (Tự Thú I). Nhưng khi lên bậc trung học, ngài cảm thấy yêu thích việc đọc các tác phẩm của các thi sĩ La Mã lừng danh. Ngài có nhiều bạn học đã gắn bó với nhau suốt đời. Sau bốn năm tại Maudauros, gia đình hết tiền và Augustinô phải về nhà lúc 16 tuổi.

Trong một năm tận hưởng sự tự do tại nhà, Augustinô giao kết với một nhóm bạn hư hỏng, thường đi chơi khuya và quấy phá làng xóm. Một đêm, họ lẻn vào nhà vườn của người lạ và trộm lê. Họ chẳng hề có ý định ăn chúng – những trái lê đó chẳng ngon, chẳng đẹp mắt – nhưng họ chỉ muốn hái thật nhiều rồi ném cho lũ heo. Với nhiều người, hành vi ấy có vẻ chỉ là trò nghịch ngợm trẻ con, nhưng đối với Augustinô, về sau ngài xem đó là một tội lỗi nghiêm trọng. Kết luận của ngài là họ làm vậy chỉ vì tìm được niềm vui khi làm điều xấu và đây là dấu vết thương tích từ hậu quả của tội nguyên tổ, con người có khuynh hướng tìm vui thích nơi những điều sai trái (Tự Thú II). Qua thời gian, ý chí bị yếu đi, hành vi tội lỗi trở thành thói quen và con người trở nên đồi bại vì vậy. Augustinô xem đây là cuộc chiến suốt đời. Toàn bộ cuộc sống trần thế là một thử thách, một cuộc đấu tranh để làm điều thiện chống lại sự dữ tiềm ẩn trong chính chúng ta, trong ý chí yếu đuối của ta (Tự Thú X).

Không lâu sau đó, cha ngài lâm bệnh và trở thành Kitô hữu trước khi qua đời. Những lời cầu nguyện và gương sáng của Monica cuối cùng đã cảm hóa được người chồng. Với tay trắng, tưởng như việc học của Augustinô phải chấm dứt, nhưng có một phú hộ ở Thagaste, Romanianus, để ý đến năng khiếu văn chương của Augustinô và muốn giúp chàng thư sinh trẻ. Nhờ sự bảo trợ này, Augustinô được gửi đến Carthage trung tâm Bắc Phi, để tiếp tục việc học hành (371). Ngài ước mơ trở thành luật sư hay quan chức, thành công, địa vị, giàu sang và một cuộc hôn nhân xứng đáng.

Carthage là một thành phố ngoại giáo, người ta còn thờ nữ thần Tanit. Augustinô mô tả Carthage như một “lò luyện của những tình yêu bất chính(Tự Thú III)—hẳn rất phóng đãng đối với một cậu bé tỉnh lẻ. Lúc ấy 17 tuổi, ngài bắt đầu chung sống với một người phụ nữ (không nêu tên). Augustinô khẳng định ngài chung thủy với bà suốt 13 năm chung sống cho đến khi phải đột ngột chấm dứt để chuẩn bị chịu phép rửa (Tự Thú IV). Người phụ nữ này đã sinh cho ngài một con trai, được đặt cái tên sùng tín “Adeodatus” (được Thiên Chúa ban). Chúng ta không biết cậu quan trọng thế nào đối với cha mình khi còn nhỏ, nhưng đối thoại Người Thầy (De Magistro) là minh chứng cho những cuộc trò chuyện triết học sâu sắc giữa cha và con khi cậu bé ở tuổi thiếu niên.

Tại Carthage Augustinô theo học môn tu từ, hùng biện, toán học, âm nhạc và triết học. Ngài đam mê những kỷ năng tư duy và diễn ngôn trước công chúng. Ngài kể rằng mình đứng đầu lớp (Tự Thú III), và ta có thể dễ dàng tin điều đó. Khó có thể hình dung rằng bất kỳ bạn học nào của ngài khi ấy lại có tài năng hoặc sắc sảo ngang bằng. Cũng tại Carthage, Augustinô đã khám phá ra Cicero, người trở thành ngọn đèn triết học chủ yếu cho ngài. Tác phẩm Hortensius của Cicero (nay đã thất truyền) đã tạo nên niềm khao khát cho sự khôn ngoan và thay đổi hướng đi trong cuộc đời Augustinô. Qua Cicero Augustinô biết đến triết lý hoài nghi cùng với những quan điểm của phái Khắc kỷ và Khoái lạc.

Những lôi cuốn đầu đời

Dù vẫn bị cám dỗ bởi xác thịt, Augustinô vẫn say mê học tập: “Tâm trí bồn chồn của tôi hoàn toàn hướng đến việc tìm kiếm tri thức” (Tự Thú III). Triết học đã gieo vào lòng ngài sự khao khát tìm kiếm khôn ngoai. Nhưng khôn ngoan là gì? Làm sao đạt được nó? Qua các thầy dạy, Augustinô được tiếp cận nhiều ý tưởng mới và sẵn sàng mở lòng trước bất kỳ điều gì.  Sau đó, Augustinô quay qua đọc Kinh Thánh “để xem nó như thế nào”, nhưng sớm bị thất vọng vì nhận thấy Kinh Thánh “không xứng đáng so với sự cao quý của Cicero. Bản dịch Kinh Thánh ngài có là thứ Latinh bình dân, thô sơ thiếu sự hoa mỹ, hùng hồn và uyên bác. Những câu chuyện đa thê, tì thiếp và ngoại tình nơi các tổ phụ thật là phản cảm. Ngài bị sốc vì những câu chuyện xấu xa ấy lại được nêu gương cho đức tin: “Tôi coi các sách Kinh Thánh là thứ thấp kém hơn văn chương trần gian” (Tự Thú III).

Vào thời đó, tuy Kitô giáo đã được hợp pháp hóa hơn nửa thế kỷ và đang phát triển mạnh, nhưng không phải là tôn giáo duy nhất trong đế quốc. Các đền thờ cổ vẫn còn hoạt động, và nhiều tôn giáo mới từ phương Đông du nhập, trong số đó có phái Manikê. Đây là một giáo phái có gốc nhị nguyên ngộ giáo do Mani, người Ba Tư, sáng lập. Phái Manikê đề cao lý trí, khoa học và triết học, Dưới lớp vỏ bọc Kitô giáo, Mani tự nhận là Tông Đồ của Đức Kitô, cho rằng Đức Kitô không hề sinh ra, không làm người, và không chịu chết. Mani đưa ra các “chân lý” mới để thu hút những người đang tìm kiếm. Augustinô ngưỡng mộ lối sống kỷ luật và đạo đức của các tín đồ Manikê. Ngài theo đuổi phái lạc giáo này như một “thính đồ” (auditor) suốt chin năm, với mục tiêu tìm kiếm sự khổ luyện và trật tự cho đời sống mình.

Khoảng 25 tuổi, Augustinô đưa người tình và con trai về Thagaste và mở lớp dạy khoa hùng biện, một kỷ năng thiết yếu cho sự thành đạt trong xã hội. Bên cạnh đó, giới tinh hoa Manikê (the Elect) cũng giảng dạy và hứa hẹn: “Chúng tôi sẽ trao cho bạn một bí mật, điều mà không ai khác biết, và nó sẽ mở khóa mọi huyền nhiệm của vũ trụ” (Tự Thú III). Những hứa hẹn này rất lôi cuốn đối với giới tri thức đang khao khát tìm kiếm sự khôn ngoan như Augustinô. Monica kinh hãi khi biết con mình theo phái Manikê, và dù lòng rất đau xót, bà nhất quyết không cho Augustinô đặt chân vào nhà. Augustinô tìm đến vị ân nhân của mình là Romanianus, và nơi đó Augustinô được ưu đãi mọi bề. Tiếng tăm của ngài càng ngày càng gia tăng nhờ các bài diễn thuyết. Được thành công khích lệ, Augustinô tin chắc mình đang đi đúng đường — cho đến khi có một biến cố khiến ngài khựng lại.

Augustinô muốn đào sâu tri thức về chân lý và mang những câu hỏi về nguồn gốc của sự dữ đến với các thầy Manikê. Nhưng họ nói: “Hãy đợi Faustus đến, ngài sẽ giải đáp hết thảy.” Faustus là một giám mục Manikê trứ danh lúc bấy giờ. Augustinô đã chờ đợi suốt chín năm mới gặp được Faustus khi ông đến Carthage. Nhưng cuộc gặp gỡ ấy trở thành một thất vọng lớn.  Augustinô viết: “Khi tôi nêu lên vài vấn đề làm tôi khắc khoải, tôi nhận ra ngay ông ta không biết gì nhiều ngoài ngữ pháp và văn chương; kiến thức của ông chỉ mang tính sách vở. Ông đã đọc vài bài diễn văn của Cicero, một ít sách của Seneca, một số bài thơ, và vài tác phẩm của chính giáo phái mình được viết bằng một thứ Latinh văn hoa” (Tự Thú V).

Lúc ấy Augustinô 29 tuổi, mất dần hy vọng rằng giáo phái Manikê có thể thỏa mãn những khao khát tri thức của mình. Augustinô trở nên dè dặt hơn trước những gì họ trình bày (Tự Thú V). Phần Monica ti vẫn tiếp tục cầu nguyện khẩn thiết cho con mình và tìm sự hướng dẫn thiêng liêng nơi nhiều giáo sĩ. Bà tìm sự trợ giúp nơi một giám mục trong hàng ngũ Manikê khi còn trẻ, nhưng vị này từ chối nói chuyện với Augustinô. Trước nước mắt và lời cầu nguyện tha thiết của Monica, vị giám mục này đã tiên tri rằng, “Hãy cứ để cậu ấy đi, và tiếp tục sống như cậu ấy đang sống; vì nếu cậu ấy là một người lạc xa sự thật, cậu ấy sẽ tự khám phá ra điều đó và quay trở lại” (Tự Thú III).

Sau gần ba năm dạy môn hùng biện ở Carthage, Augustinô chán ghét sự vô kỷ luật nơi học trò. Ngài lập kế hoạch đi Rôma, bỏ lại mọi sự ràng buộc quá khứ để theo đuổi tham vọng và ước muốn của mình. Nhưng mẹ ngài cứ lẽo đẽo bám theo ngài đến bất cứ nơi nào ngài tới. Cuối cùng, Augustinô đã làm một việc vô cùng dối trá. Ngài đưa mẹ mình đến đền Thánh Cyprianô, vị tử đạo Phi Châu lừng danh, ở bến tàu, và dặn dò bà: “Mẹ chờ ở đây, con đi chào tạm biệt một người bạn, rồi con sẽ quay lại đón mẹ, chúng ta cùng đi Rôma.” Nhưng thay vì quay lại, Augustinô âm thầm lên tàu và thẳng tiến đi Rôma. Sáng hôm sau không thấy con mình trở lại, Monica đã khóc hết nước mắt (Tự Thú V).

Augustinô đến Rôma năm 384. Kinh đô huy hoàng và tráng lệ này có ý nghĩa lớn đối với ngài. Rôma là biểu tượng của di sản văn hóa mà Augustinô tự hào về đế quốc. Đây là thành phố của Virgil, Cicero, hơn nữa, đây còn là nơi chứa đựng bao điều ngài đã học, đã nghiền ngẫm, đã thừa hưởng từ các bậc tiền bối. Hẳn ngài vô cùng hân hoan khi có cơ hội đến Rôma, mở khóa dạy môn hùng biện và nhận học trò ở thành phố lừng danh đó. Ở tuổi 30, Augustinô ngài vẫn còn đủ trẻ để xây mộng lý tưởng của mình. Ngài nghĩ học trò tại Kinh Thành sẽ khác, nhưng ngài đã lầm, học trò ở đâu cũng là học trò. Họ đến nghe giảng, khoe khoan rằng mình theo học một thầy danh tiếng, nhưng tới ngày đóng học phí thì biến mất. Rốt cuộc, Augustinô “lãnh đủ” hóa đơn, gần như cạn tiền, sức khỏe yếu, ngài bổng thấy mình bị lạc lõng nơi kinh thành diễm lệ (Tự Thú V).

Chính vào lúc ấy, cơ hội vàng xuất hiện từ một vị bảo trợ mới. Symmachus, một nghị viện quý tộc ở Rôma — có ước vọng đưa đế quốc trở lại thời huy hoàng cổ xưa. Symmachus vận động phục hồi việc thờ kính các thần La Mã cổ xưa, tái thiết “Bàn thờ Nữ thần Chiến thắng” cùng những nghi lễ tế tự tại đó. Vị quan chức này tin điều ấy sẽ mang lại lợi ích cho Đế quốc. Ông đang tìm đồng minh và đã hài lòng khi chiêu mộ được Augustinô, một trí thức trẻ lỗi lạc đầy hứa hẹn với tài hùng biện xuất chúng. Augustinô sẽ làm việc dưới trướng của Symmachus.

Khám phá Ambrôsiô và Triết lý Tân-Platô tại Milan

Thế là chỉ sau một năm, Augustinô làm việc cho triều đình dưới quyền viên tổng trấn mới của Milan. Khi ấy, Milan là thủ phủ của đế quốc và Ambrôsiô là giám mục tại nhà thờ chính tòa tại đó. Ambrôsiô từng có một sự nghiệp chính trị huy hoàng trước đây và rất uyên thâm trong học vấn Hy Lạp cổ điển. Augustinô chưa từng biết ai như thế ở Carthage, chứ đừng nói ở Thagaste. Ambrôsiô đón tiếp Augustinô với tâm tình nhân hậu của một người cha. Augustinô bị thu hút bởi tài hùng biện và vẻ đẹp ngôn từ, nhưng chưa thật sự về nội dung của những bài giảng thuyết của vị giám mục này. Ngài viết: “Con say mê nghe ngài giảng cho dân chúng, không phải với tâm thế đúng đắn, mà như thể chỉ để kiểm nghiệm tài hùng biện của ngài, xem có xứng với tiếng tăm hay không, và liệu sự trôi chảy ấy hơn hay kém lời đồn. Con chăm chú vào giọng điệu của ngài, nhưng vẫn dửng dưng và khinh bỉ nội dung. Niềm vui của con là ở vẻ đẹp của ngôn từ(Tự Thú V).

Symmachus mời Augustinô giữ ghế giáo sư hùng biện ở Milan — một vị thế vừa danh giá vừa có ảnh hưởng (Tự Thú V). Giờ đây, Augustinô có cơ hội nắm bắt những gì ngài đã mơ ước. Là một diễn giả tài ba, Augustinô sở hữu những kỹ năng mà người Rôma coi trọng. Ngài trở thành “tiếng nói” hay cỗ máy tuyên truyền và truyền tải thông điệp của triều đình. Công việc của Augustinô là sáng tác những thuyết trình và đọc chúng trước công chúng, với mục tiêu ca ngợi các đức hạnh của hoàng đế và các chiến thắng quân sự.

Trong chức vị mới, Augustinô thăng tiến cả thế lực lẫn tiền tài.[1]

Biến cố Ambrôsiô trở thành giám mục tại Milan thì khá ly kỳ. Khi thấy có một cuộc xung đột xảy ra giữa Giáo hội và phái Ariô, Ambrôsiô đến xem và giúp giải quyết. Dân chúng thấy ngài là người có tài năng thích hợp nhất để đại diện cho họ, liền cùng nhau hô to: “Ambrôsiô--Giám mục!” Ambrôsiô lánh mặt và bỏ trốn vào nhà một người bạn, nhưng sau đó “bị giao” cho công chúng do lệnh của triều đình. Chỉ trong vòng một tuần, Ambrôsiô lãnh nhận bí tích Thánh tẩy, linh mục và tấn phong giám mục — một chức vụ mà ngài tin là do thánh ý Thiên Chúa. 

Cuối cùng, Monica cũng tìm đến Milan để tái hợp với con mình. Monica cũng bị lôi cuốn bởi Ambrôsiô và thúc giục Augustinô đến gặp ngài. Augustinô chiều theo và dùng địa vị của mình để tiếp xúc vị giám mục tài năng này. Thế là Augustinô trở thành “người đưa tin,” đem các câu hỏi tôn giáo của mẹ đến Ambrôsiô. Augustinô có cơ hội tìm hiểu về lối suy nghĩ thấu đáo cũng như nền tảng triết học của Ambrôsiô. Ngài nhận ra nơi vị này sự khôn ngoan, bình an và tĩnh tại mà ngài đang khát khao.

Ambrôsiô diễn giải Kinh Thánh rất khác với phái Manikê và cho thấy đức tin không hề mâu thuẫn với lý trí. Từ đó, các định kiến mà Augustinô từng có về Kinh Thánh bắt đầu tan biến (Tự Thú V). Trước đây, khi đọc các đoạn như phép lạ bánh và cá, Augustinô chi chỉ đơn thuần hiểu đó như là chuyện bánh và cá, chứ chưa nhìn ra ý nghĩa biểu tượng. Tuy say mê với tri thức mới, Augustinô vẫn chưa sẵn sàng ôm lấy đức tin của Giám mục Ambrôsiô (Tự Thú IX).

Cũng tại Milan, Augustinô bắt đầu tiếp xúc với tư tưởng Tân-Platô qua các qua Porphyry và từ đó ngài phát triển các lập luận chống lại phái Manikê. Kết quả là một trải nghiệm về ánh sáng nội tâm đầu tiên. Sau này khi hồi tưởng lại, Augustiô viết: “Cùng với Ngài [lạy Chúa] là Đấng hướng dẫn, con bước vào thành trì sâu thẳm nhất của lòng mình, và con có thể làm được điều đó bởi Ngài đã trở thành Đấng trợ giúp con. Con đã bước vào, và với ‘con mắt linh hồn’ của con, con đã nhìn thấy, trên chính con mắt đó, một ánh sáng bất biến vượt trên tâm trí con—không phải ánh sáng thường nhật mà ai cũng thấy, cũng không phải thứ ánh sáng lớn lao hơn cùng loại, vốn chiếu tỏa sáng hơn và tràn ngập mọi sự bằng sự rộng lớn của nó. Không phải ánh sáng ấy, mà là một điều gì đó hoàn toàn khác, khác hẳn với mọi thứ ánh sáng chúng ta biết” (Tự Thú VII).

Plotinus (?-270) và triết lý Tân-Platô đã mang lại hứng thú cho thời đại mới. Nhiều Kitô hữu tại Milan rất phấn khởi với học thuyết này vì nó cởi mở với tôn giáo và kinh nghiệm thiêng liêng. Ý tưởng của Plotinus về thế giới bất biến và siêu việt hơn thế giới vật chất đã cho Augustinô một phạm trù tư duy mới. Ngài bắt đầu suy tư về Thiên Chúa là nguồn của Chân, Thiện, Mỹ tuyệt đối. Ánh sáng chân lý bắt đầu chiếu soi vào tâm trí ngài từ Thiên Chúa của Kinh Thánh.[2] Qua Ambrosiô và nhờ sự chuyên chú sâu xa vào Tân–Platô, Augustinô đã vượt qua hoài nghi, tìm được lối vào thế giới thiêng liêng đích thực và ngay lập tức cảm nghiệm niềm vui khôn tả. Sự kết nối giữa Logos Hy Lạp và Logos trong lời tựa Tin Mừng Gioan đang bừng sáng nơi ngài.

Augustinô học được cách hình dung về Thiên Chúa như một Đấng vô hình nhưng hiện hữu khắp nơi (Tự Thú VII). Triết lý Tân-Platô đã giúp Augustinô tháo gỡ những rối rắm về các vấn đề mà đã làm cho ngài băng khoăn là: (1) Thiên Chúa vô hình hiện hữu ra sao? (2) Thiên Chúa hiện diện khắp mọi nơi thế nào? và (3) Đâu là nguồn gốc của sự dữ (unde malum)?  Ngài kết nối tính phi vật chất của linh hồn với sự hiện diện của Thiên Chúa nơi đời sống nội tâm. Lý trí của Augustinô muốn tiến xa hơn nữa đến Thiên Chúa, nhưng tâm hồn ngài còn bị giằng xé vì sự bám víu vào những thói quen dục vọng của lối sống cũ.

Một biến cố chính trị phức tạp tại Milan đã thu hút toàn bộ sự chú ý của Augustinô. Đế quốc khi ấy được cai trị bởi Hoàng đế trẻ tuổi Valentinianô II, nhưng thực quyền nằm trong tay mẹ ngài là Hoàng hậu Justina, vốn là người theo phái Ariô. Đây là nhóm lạc giáo phủ nhận sự đồng bản thể và đồng vĩnh cửu của Đức Kitô với Chúa Cha. Hoàng hậu Justina ra lệnh cho Giám mục Ambrôsiô giao Nhà thờ Chánh tòa Milan cho các giáo sĩ phái Ariô. Khi bị từ chối, bà Hoàng hậu dùng sức mạnh quân sự bao vây ngôi thánh đường. Ambrôsiô huy động cộng đoàn Kitô hữu vào bên trong nhà thờ, hát thánh thi, đọc Thánh vịnh, nghe giảng và cầu nguyện không ngơi nghỉ. Có cả Monica trong số những người can đảm ấy, khích lệ giáo dân giữ vững niềm tin.[3] Đó là hành động táo bạo vì bất cứ lúc nào quân lính cũng có thể ập vào và không để lại ai sống sót.

Trước mối đe dọa đó, giám mục Ambrôsiô giữ vững tinh thần kiên định và chuẩn bị sẵn sàng chịu tử đạo. Augustinô lúc ấy giằng xé nội tâm dữ dội vì ngài có những người bạn ở cả hai phe và mẹ ngài đang ở trong nhà thờ. Mối nguy mất mẹ là điều thực sự ám ảnh ngài (Tự Thú IX). Lòng can đảm và đức tin sắt đá của Ambrôsiô cùng với giáo dân cuối cùng đã xoay chuyển tình thế và triều đình đành rút quân. Ambrôsiô đã giành được cảm tình của cả binh lính và Giáo hội để giữ được ngôi thánh đường. Sự kiện này để lại ấn tượng sâu sắc nơi Augustinô (Tự Thú IX).

Hoán cải và chịu phép rửa

Ở đỉnh cao sự nghiệp và trung tâm quyền lực tại Milan, Augustinô và các bạn sống trong một biệt thự và cùng nhau truy cầu chân lý qua triết học (Tự Thú IX). Ngài đề xuất một chương trình giáo dục gồm các nghệ thuật nhân văn nhằm dẫn người học đến sự minh triết thần linh. Cho dù lý trí đã được thuyết phục nhưng cuộc đấu tranh nội tâm của Augustinô thì vẫn chưa kết thúc. Hàng đêm ngài cầu nguyện: “Lạy Chúa, xin ban cho con tiết độ và khiết tịnh – nhưng chưa phải bây giờ” (Tự Thú VIII). Trong lúc ấy, Monica không tranh cãi, không ép buộc, chỉ khóc và âm thầm cầu nguyện.

Augustinô mô tả mình lúc ấy là một kẻ “bệnh hoạn trong linh hồn”. Có nhà cửa, bạn hữu, triết học – tất cả những điều ngài mơ ước – nhưng vẫn chưa tìm được hạnh phúc. Cho đến một ngày nọ, Ponticianus một người đồng hương châu Phi đã cải đạo và là một viên chức triều đình đến thăm ngài. Ponticianus thấy một cuốn sách trên bàn và kể cho Augustinô nghe về hai người bạn – cũng là quan chức – đã một lần lạc vào một tu viện, tình cờ đọc cuốn Cuộc Đời Thánh Antôn do Athanasiô viết. Bị đánh động sâu sắc bởi gương của Thánh Antôn, cả hai người đó đã hủy hôn, từ bỏ tất cả để ẩn tu nơi sa mạc cầu nguyện và phụng sự Thiên Chúa.

Nghe xong, Augustinô bồi hồi và bật khóc. Ngài nói: “Với tất cả những gì chúng ta có – học vấn, cơ hội – hai người kia ít học hơn chúng ta rất nhiều, thế mà họ lại vào Nước Trời trước chúng ta” (Tự Thú VIII).  Augustinô rất muốn từ bỏ đam mê xác thịt, nhưng lại trì hoãn mãi. Trong Tự Thú, viết mười năm sau, Augustinô kể lại kinh nghiệm hoán cải, cuộc dằng co nội tâm đạt đến đỉnh điểm trong một khu vườn ở Milan, khi ngài nghe thấy tiếng hát của một đứa trẻ vọng vào: “Tolle, lege; tolle, lege” (Hãy cầm lên mà đọc). Augustinô tin rằng đó là lời Thiên Chúa gửi đến ngài. Ngay tức khắc, ngài mở Kinh Thánh và gặp thư Phaolô: “Đừng sống trong chè chén say sưa, dâm dục, ganh tỵ, nhưng hãy mặc lấy Đức Kitô.” (Rm 13,13–14). Đọc xong câu ấy, trí tuệ, con tim và ý chí của Augustinô đều đầu hàng Thiên Chúa. Ngài kể lại, “khi ấy ánh sáng đức tin tuôn tràn trong tâm hồn tôi, mọi bóng tối nghi ngờ đều tan biến” (Tự Thú VIII).

Đây là bước ngoặt quyết định. Augustinô, kẻ từng miệt thị Kinh Thánh, giờ đây gục ngã trước lời Thiên Chúa. Lý trí, cảm xúc và ý chí đều quy phục. Sau đó, ngài từ bỏ sự nghiệp, cùng người tình và con trai Adeodatus và vài người bạn lui về sống ẩn dật tại Cassiciacum để cùng nhau nghiên cứu Kinh Thánh và cầu nguyện. Theo gương đan phụ Antôn, ngài hiểu đây là một cuộc đoạn tuyệt tận căn: khước từ lạc thú tính dục để sống tiết dục trọn đời; khước từ sự nghiệp quan trường để sống ẩn dật với bạn bè; khước từ giàu sang để sống nghèo khó; khước từ mọi thú vui giác quan để sống khắc kỷ. Tại đây, ngài viết các tác phẩm triết học đầu tiên mà nay vẫn còn tồn tại; đó là cuốn “Chống phái Hàn Lâm” (Contra Academos) cùng với ba cuốn khác. Sự thất vọng vì không thấy điều mình mong đợi trong Kinh Thánh giờ đây được thỏa mãn với chiều sâu thiêng liêng của Cựu Ước. Augustinô chuẩn bị lãnh nhận Bí tích Rửa Tội.

Khi ngài báo tin cho Monica, bà không “nhảy lên vì vui sướng” như ngài tưởng, nhưng đã cho biết là bà đã được Thiên Chúa đảm bảo rằng trước khi chết, bà sẽ thấy con mình sẽ trở nên một tín hữu trọn vẹn (Tự Thú IX). Ở thế kỷ IV, các Kitô hữu vẫn còn đối diện với bách hại, và vì thế, những dự tòng (catechumen) cần phải có sự hiểu biết rõ ràng về giáo lý và những đòi hỏi nơi việc đi theo con đường mới. Các dự tòng sẽ được giáo lý viên hướng dẫn tìm hiểu nền tản căn bản của đức tin, sự sa ngã và cứu độ, lịch sử thánh, cùng với những quy luật luân lý. Augustinô khiêm tốn, cùng với Adeodatus khi ấy khoảng 15 tuổi, tham gia học hỏi chương trình dự tòng này (Tự Thú IX).

Sau thời gian chuẩn bị, năm 387 Augustinô được Ambrôsiô rửa tội — một biến cố mở ra một chương mới trong lịch sử Hội Thánh. Ngài viết, “Sau nhiều năm tìm kiếm, trí tuệ và đức tin đã gặp nhau — và con người mới đã được sinh ra trong ngài” (Tự Thú IX). Trong đêm vọng Phục Sinh – đỉnh cao của nghi thức rửa tội – Giám mục công bố các bài đọc dài từ Cựu Ước, thuật lại toàn bộ lịch sử cứu độ: câu chuyện Apraham và Isaac, cuộc Xuất Hành qua Biển Đỏ dưới sự dẫn dắt của Môsê, các lời tiên tri loan báo về Đấng Cứu Thế, và cuối cùng là cuộc Khổ Nạn – Phục Sinh của Đức Kitô. Những mầu nhiệm này là sự ứng nghiệm của toàn bộ Cựu Ước nơi Đức Giêsu Kitô – Mầu nhiệm Vượt Qua.

Sau khi giảng giải những mầu nhiệm ấy, Ambrôsiô dẫn các dự tòng vào phòng rửa tội. Theo truyền thống lúc bấy giờ, Augustinô cởi bỏ toàn bộ y phục như biểu tượng của con người cũ. Vị Giám mục dìm ngài xuống nước ba lần nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần – công thức mà Giáo Hội vẫn dùng cho đến nay. Sau đó, Augustinô được khoác lên một áo trắng – biểu tượng cho sự khởi đầu đời sống mới. Augustinô, con trai Adeodatus và người bạn thân Alypius cùng chịu phép rửa và niềm vui sâu sắc ấy. Monica, người đã suốt đời kiên trì cầu nguyện cho sự hoán cải của con mình, nay được chứng kiến khoảnh khắc đó, chan hòa trong nước mắt hân hoan (Tự Thú IX).

Tình yêu và nước mắt

Cuộc đời của Augustinô cũng chứa đầy dẫy những mối tình sâu đậm và đau thương mất mát. Điển hình nhất là biến cố về cái chết của người bạn thân vô danh, người mà Augustinô đã đưa vào đạo Manikê. Khi anh ta lâm trọng bệnh, gia đình mời linh mục đến rửa tội và điều đó đủ để biến đổi nội tâm anh. Augustinô định sau đó sẽ hỏi bạn vì sao lại bỏ đạo Manikê. Nhưng cơ hội đã không còn, hai tuần sau, người bạn thân đã qua đời. Bàng hoàng với cái chết của người bạn chí thiết, Augustinô rất đau đớn và đã mô tả về trải nghiệm này như sau: “Mắt tôi tìm kiếm anh ở khắp nơi, nhưng anh đã không còn đó. Tôi ghét tất cả mọi sự, vì chúng không có anh; cũng không ai có thể bảo tôi ‘kìa, anh ấy đang trên đường tới,’ như khi anh còn sống mà vắng mặt. Tôi đã trở thành một vấn nạn khổng lồ cho chính mình” (Tự Thú IV). Augustinô cho rằng Thiên Chúa nhân lành đã “giật lấy” người bạn ấy khỏi ngài để anh không bị kéo vào lạc lối của phái Manikê. Cái chết ấy làm cho Augustinô suy nghĩ về tình bạn là mối liên kết sâu xa giữa các linh hồn. Khi mối dây thân thiết ấy bị cắt đứt, nỗi buồn trở thành vết thương rỉ máu trong tâm hồn. Vì thế, muốn tránh đau khổ, con người nên học cách yêu thương điều bất biến.

Từ lúc còn ở Carthage, Augustinô đã gắn bó thủy chung và có con với một người phụ nữ không danh phận. Nhưng để chuẩn bị chịu phép rửa, Monica quyết định Augustinô cần một hôn nhân chính thức cho xứng đáng. Người tình thuộc tầng lớp thấp hơn và không thể kết hôn theo luật thời đó, phải trở về Bắc Phi. Monica đôn đáo lo kiếm một mối hôn đăng hội đối, nhưng cô gái này còn quá trẻ, phải đời hai năm sau mới đủ tuổi kết hôn (14 tuổi). Tách biệt khỏi người ngài đã chăn gối suốt mười hai năm, Augustinô rất đau đớn. Cô ta là một phụ nữ có phẩm giá và sự cao quý khiến ngài kính phục. Trước khi rời đi, cô nói rằng sẽ luôn yêu ngài và không bao giờ yêu người đàn ông nào khác. Cô trở thành hình mẫu đạo hạnh và đã giúp ngài vượt lên trên dục vọng thuần túy. Sự tan vỡ này đã chữa lành trái tim ngài mãi mãi. Augustinô thổn thức về nỗi đau ấy bằng những ngôn từ tương tự như khi mất người bạn thân năm xưa: “Khi tôi mất người ấy, linh hồn tôi tan nát vì tôi đã đánh mất một linh hồn là một phần của chính tôi(Tự Thú IV).

Kế tiếp, cái chết của con trai Adeodatus, người cùng ngài lãnh nhận phép Rửa tội, làm cho ngài đau lòng không ít. Cậu bé được miêu tả là rất thông minh và sâu sắc (De Magistro). Mối liên kết thiêng liêng này giữa cha và con cũng là biểu tượng cho sự tái sinh tâm linh của chính Augustinô. Đau lòng trước sự mất mát của đứa con trai thân yêu, nhưng lần này Augustinô đã có đức tin để nương tựa.

Quan trọng nhất là Monica – là một người mẹ Công giáo mẫu mực, luôn kiên trì cầu nguyện và không ngừng tìm mọi cách đưa con mình trở về Hội Thánh. Nếu Augustinô không chịu nghe bà, Monica sẽ hướng về Đấng mà bà tin chắc sẽ không từ chối lời cầu xin của mình. Thiên Chúa. Là một người mẹ can đảm, Monica dùng lời lẽ đến từ chính Thiên Chúa để cảnh tỉnh Augustinô khỏi dục vọng và tội lỗi. Bà đã khóc rất nhiều và than thở với một linh mục, người mà đã nói với bà: “Không thể nào con của những giọt nước mắt ấy lại bị hư mất” (Tự Thú III). Trong một giấc mộng, bà thấy mình và con cùng đứng trên cùng một thước đo đức tin, và một thiên sứ bảo: “Nơi nào bà ở, con trai bà sẽ ở đó” (Tự Thú III). Khi Augustinô cố diễn giải giấc mộng theo hướng Manikê, nhưng Monica bác bỏ ngay lập tức.

Monica đã khóc nhiều khi Augustinô nối dối với bà để bỏ trốn sang Rôma. Augustinô mô tả Monica đang đứng bên bờ biển, nước mắt giàn giụa, cầu nguyện cho ngài (Tự Thú V). Khi ôn lại những hoài bão của mẹ mình, Augustinô cho rằng lúc ấy bà còn “đang ở vùng ngoại ô Babylon” (Tự Thú II). Bà trì hoãn việc rửa tội cho con cho đến khi nó vượt qua thời kỳ buông thả. Bà khao khát sự thành công của đứa con thông minh nên ngăn cản việc cưới vợ sớm – vô tình tước mất liều thuốc tốt nhất chống lại dục vọng tuổi trẻ. Bà đã sắp xếp một cuộc hôn nhân “môn đăng hộ đối” với một tiểu thư Kitô hữu còn dưới tuổi khi Augustinô thành đạt và chuẩn bị chịu phép rửa. Nhưng cuộc hôn nhân này thì không phù hợp với ơn gọi tu trì sau này của Augustinô (Tự Thú VI). Augustinô cho rằng nước mắt của mẹ là hỗn hợp, vừa vì linh hồn con, vừa vì bà muốn giữ con bên mình. Đó là dấu chỉ tình yêu Thiên Chúa tiền định Augustinô được cứu rỗi, và cũng cho thấy tình yêu của Monica cần được thanh luyện.

Hành trình trở về nhà

Cùng với Evodius[4], Augustinô quyết định trở về Bắc Phi để lập một tu đoàn. Trong lúc chờ đợi tàu ở Ostia, gia đình Augustinô tạm nghỉ tại một ngôi nhà. Tại nơi đây, có một cuộc trò chuyện thiêng liêng giữa Augustinô và mẹ ngài khi họ tựa cửa sổ nhìn ra khu vườn thanh bình. Mười hai năm sau (397), Augustinô ghi lại biến cố khó quên này: “Cuộc trò chuyện dẫn chúng tôi đến kết luận rằng mọi thú vui của giác quan thể xác, dù có hấp dẫn đến đâu trong ánh sáng huy hoàng của thế giới vật chất, so với đời sống vĩnh cửu thì chẳng đáng gì. Tâm trí chúng tôi bừng cháy khát vọng hướng về Hữu thể vĩnh cửu. Từng bước, chúng tôi vượt qua mọi đối tượng thể chất và cả bầu trời nơi mặt trời, mặt trăng và tinh tú chiếu sáng trái đất. Chúng tôi còn đi xa hơn nữa nhờ nội tâm suy tư và kinh ngạc trước các công trình của Ngài, rồi bước vào chính linh hồn mình. Chúng tôi vượt lên khỏi nó để đạt đến miền phong phú vô tận, nơi Ngài nuôi dưỡng Israel đời đời bằng chân lý. Ở đó, sự sống chính là sự khôn ngoan, nhờ đó mọi loài hiện hữu, đã có và sẽ có(Tự Thú IX).

Chỉ vài ngày sau cuộc đàm thoại thiêng liêng ấy, Monica ngã bệnh và rơi vào hôn mê. Khi tỉnh lại, Monica trăn trối: “Con ơi, với riêng mẹ, giờ đây mẹ không còn thấy thú vui gì trong đời sống này nữa. Còn gì để mẹ làm, và tại sao mẹ còn ở lại, mẹ không biết. Hy vọng của mẹ trong cõi đời này đã được hoàn tất. Lý do duy nhất khiến mẹ muốn sống lâu hơn chỉ là để thấy con trở thành một Kitô hữu Công giáo trước khi nhắm mắt. Thiên Chúa của mẹ đã ban điều ấy, còn vượt xa điều mẹ dám hy vọng” (Tự Thú IX). Sau chín ngày bệnh, Monica qua đời, hưởng thọ 56 tuổi. Augustinô vuốt mắt của mẹ mình và hát lên bài thánh ca mà bà yêu thích do Ambrôsiô sáng tác. Điều đó khơi lại tình cảm sâu đậm với người mẹ thân yêu, và cho Augustinô sự bình an nội tâm giữa nỗi buồn.

Về cuộc hành trình trở về quê nhà, Augustinô viết: “Cuộc sống là hành trình về nhà, nơi có Thiên Chúa là Đấng vĩnh cửu và bất biến” (Tự Thú III). Tham vọng đã đưa ngài ra khỏi Phi châu, nhưng ơn gọi đích thực lại dẫn ngài trở về. Augustinô chọn lối sống vita communis cùng các bạn đồng chí hướng, chuyên tâm học Kinh Thánh và triết học, đối thoại và cầu nguyện. Trong ba năm, ngài viết các tác phẩm chống thuyết hoài nghi và phái Manikê. Đây là sự viên mãn của tất cả những gì ngài từng khao khát. Nhưng Thiên Chúa có kế hoạch khác.

Một ngày nọ, khi đang tham dự phụng vụ tại Hippo, một thành phố cảng lớn ở Bắc Phi, các tín hữu trong cộng đoàn nghe Giám mục Valerius giảng Giáo hội đang thiếu linh mục. Augustinô lúc này đã nổi tiếng, bị cộng đoàn nhận ra và kéo đến trước mặt vị Giám mục già Valerius, gốc Hy Lạp. Họ yêu cầu giám mục phong ngài làm linh mục và nhà giảng thuyết thay cho một ứng viên khác. Dù lúc đầu kịch liệt phản đối, Augustinô cuối cùng chấp nhận, đặt qua một bên lợi ích cá nhân. Ngài được phong linh mục, và năm năm sau, năm 395, ở tuổi 41, trở thành giám mục phó, rồi kế vị Valerius khi ngài qua đời.  Quyết định này có hệ quả to lớn cho cả thần học lẫn chính trị Giáo hội. Augustinô giữ ngôi giám mục 35 năm. Khác với nhiều giám mục đương thời vốn có gia đình, ngài sống khổ hạnh cộng đoàn với các linh mục, phó tế và giáo sĩ, giữ khiết tịnh và khó nghèo, mặc áo chủng đen, tách biệt khỏi giáo dân. Một số bạn đồng hành sau này cũng trở thành giám mục. Chính mô hình cộng đoàn Augustinô này đã trở thành mẫu mực cho các cộng đoàn nhà thờ chính tòa thời Trung cổ.

Với tư cách giám mục, Augustinô cử hành phụng vụ và giảng dạy, huấn luyện tân tòng và dự tòng, trong bối cảnh xã hội đầy biến động. Ngài còn phải điều hành các công việc bác ái, xét xử và chuyển thỉnh cầu lên chính quyền, tham dự các công nghị, công đồng, duy trì một khối lượng thư từ đồ sộ (vươn tới tận Gaule và Dalmatia), cùng với vô số chuyến đi dài ngày bằng ngựa. Sự kết hợp giữa quyền lực nhà nước và thẩm quyền Giáo hội trong thời Trung cổ đã được báo trước bởi thẩm quyền pháp lý mà hoàng đế trao cho các giám mục trong các vụ xử án dân sự.

Đồng thời Augustinô cũng là một nhà chú giải Kinh Thánh, được thể hiện qua những các trước tác: Sáng thế ký, Thánh vịnh, Bài giảng trên núi, và Tin Mừng Gioan. Đặc biệt là cuốn Tự Thú, được viết như một lời cầu nguyện, vừa phân tích tâm lý, vừa suy tư thần học, bởi một con người vẫn chưa tìm thấy sự an nghỉ. Ngài viết nó cho chính mình và cho một giới tinh hoa mới – vừa để biện minh, vừa để chữa lành. Sau đó, hai cuốn De TrinitateDe civitate Dei, hợp thành một toàn cảnh thần học phi thường, luôn quay về Kinh Thánh (người ta đã đếm được hơn 40.000 trích dẫn Kinh Thánh trong các tác phẩm của ngài). Augustinô có khả năng kiên nhẫn và nhất quán trong việc đào sâu và triển khai chi tiết những ý tưởng lớn nảy ra trong tâm trí.  Thần học của ngài mang dấu ấn sâu đậm từ hai cuộc khủng hoảng lớn: phái ly khai Đônatô và giáo thuyết Manikê, đã làm rung chuyển Giáo hội Bắc Phi. Những biết cố này buộc Augustinô phải canh tân tư tưởng và tác động đến toàn bộ Giáo hội Latinh Tây phương.

Augustinô mất ngày 28 tháng 8, năm 430, sau ba tháng thành Hippo bị quân Vandals chiếm đóng. Ngài để lại ba tác phẩm quan trọng còn đang viết lỡ dở, trong đó có thư phản hồi thứ nhì cho Juliano, một nhà lãnh đạo đầu não của nhóm dị giáo Pelagiô. Một lá thư ngài đã đọc từ giường bệnh cho thư ký viết xuống về các bổn phận của linh mục khi đối đầu với sự xâm chiếm của quân ngoại bang. Ngài được chôn cất tại nhà thờ chính tòa của giáo phận; và vào khoảng năm 725, phần mộ của ngài đã được di dời về Pavia, và ngài an nghĩ tại Vương Cung Thánh Đường Thánh Phêrô tại Ciel d’Oro.

Tổng cộng, Augustinô để lại khoảng 100 tập sách và chuyên luận, 250 bức thư, và khoảng 500 bài giảng, bao gồm cả những bài chú giải Thánh vịnh. Sự nghiệp trước tác của Augustinô có thể được xếp theo ba giai đoạn. Giai đoạn đầu (386–395) tại Cassiciacum ngài viết các đối thoại triết học Kitô giáo; chống Manikê và khi về đến Bắc Phi ngài khởi đầu đời sống đan tu và dạy Kinh Thánh cho dân chúng bình dân. Ở giai đoạn giữa, là một Giám mục, Augustinô tập trung vào bản chất của Hội Thánh, tính duy nhất và hợp lệ của bí tích Rửa tội vốn dựa trên đức ái, chứ không bởi sự tinh khiết như phái Đônatô chủ trương. Giai đoạn cuối, ngài chú tâm vào giáo lý ân sủng, chống phái Pêlagiô, vốn lạc quan về khả năng con người đạt sự hoàn hảo mà không cần ân sủng. Với Augustinô tôn giáo phải là vấn đề của con tim và thần học là một diễn ngôn có suy tư, một bản tường thuật về Thiên Chúa. Với tài năng phi thường, Augustinô đã thống nhất đức tin với lý trí, dung hòa Kinh Thánh với triết lý Tân–Platô về Thiên Chúa. Ngài vừa bảo tồn vừa sáng tạo, vừa dấn thân vào hộ giáo vừa phát triển thần học Kitô giáo; vừa tiến hành phân tích hệ thống, vừa giải quyết những vấn đề thực tiễn của giáo hội. Augustinô đã định hình thần học Kitô giáo và lòng đạo đức Tây phương hơn bất cứ thần học gia nào khác.

 



[1] Peter Brown, Augustine of Hippo: A Biography (Berkeley: University of California Press, 2000), 104.

[2] Frederick Van Fleteren, “Augustine and Platonism,” Augustinian Studies 25 (1994): 1–35.

[3] Ibid, 113.

[4] Evodius là một người đồng hương Thagaste, sau này làm Giám mục và là đối thoại viên của Augustinô trong tác phẩm “Tự do chọn lựa của Ý chí” (De libero arbitrio).

Chia sẻ

Chưa có Đánh giá/Bình luận nào được đăng.

Hãy trở thành người đầu tiên đóng góp nội dung cho Bài viết này.