ĐỐI THOẠI & CẦU NGUYỆN TRONG TRIẾT-THẦN PHAN SINH
CHỦ ĐỀ ĐỐI THOẠI & CẦU NGUYỆN
TRONG TRIẾT-THẦN PHAN SINH
BÀI 1: ĐỐI THOẠI LIÊN TÔN
Fr. Paul Route, ofm
Nhà thần học Hans Kung đã nói rằng đối thoại về đức tin khác nhau là một nhu cầu bức thiết của thời đại chúng ta. Đối thoại liên-tôn không chỉ đơn giản là một quá trình nói chuyện giữa các thành viên của các niềm tin tôn giáo khác nhau (Kitô hữu, Tín đồ Đạo hồi, người Do thái, người theo Ấn giáo…) nhưng là sự gặp gỡ giữa các trí tuệ và con tim trong tinh thần khao khát đi tìm chân lý. Thực hiện đối thoại giữa các niềm tin tôn giáo dựa trên những nền tảng thần học vững chắc (tốt) là một điều quan trọng. Và nếu có một cuộc đối thoại thực sự của những trí óc và con tim, thì thật là thích hợp nếu các nền tảng đó được gợi hứng từ những kinh nghiệm của những người đã từng dấn thân vào đối thoại liên tôn, trong trường hợp này chúng ta có kinh nghiệm của Thánh Phanxico Assisi và Ngài Sultan Melek-el-Kamil. Trong bối cảnh này, kinh nghiệm tôn giáo trở thành vai trò chủ lực trong việc hình thành một nền thần học cho việc đối thoại giữa các niềm tin tôn giáo.
Nhà thần học Do thái giáo Abraham Joshua Heschel than phiền về việc có quá nhiều thần học khởi đầu bằng những nguyên lí của các triết gia hơn là kinh nghiệm của các tiên tri. Cuộc gặp gỡ giữa thánh Phanxico và Ngài Sultan Melek-el-Kamil vào năm 1219 đã mang lại nhiều hệ luận thực tiễn cho việc đối thoại giữa các niềm tin tôn giáo và có thể dùng như một thí dụ để minh họa quan điểm cho rằng kinh nghiệm tôn giáo có thể mang lại một điểm xuất phát có giá trị cho thần học.
BỐI CẢNH LỊCH SỬ
Cuộc gặp gỡ giữa thánh Phanxico và Ngài Sultan xẩy ra trong bối cảnh của cuộc Thập tự chinh thứ năm. Như một hiện tượng lịch sử, các cuộc Thập tự chinh được khơi dậy từ bài diễn văn ở Clermont của ĐGH Urbano II vào năm 1095. Nhiều cuộc Thập tự chinh được phát động suốt thế kỉ 12 nhưng ngoại trừ những thành công bước đầu của cuộc Thập tự chinh thứ nhất, các cuộc Thập tự chinh khác chứng tỏ một sự thất bại về phương diện chính trị. Hồi giáo trước đây chia thành nhiều nhánh quân sự, đã lớn lên thành một thế lực hùng mạnh và đoàn kết dưới sự thách thức của xâm lược phương Tây. Năm 1187, Saladin đã lấy lại Jerusalem và sau đó đã trở thành một thành Thánh của Hồi giáo.
Saladin đã chiếm giữ Jerusalem vào ngày mồng 2 tháng 10, năm 1187. Vào cuối tháng 10, ĐGH Gregorio VIII đã kêu gọi Thập tự chinh để chiếm lại Jerusalem – có thể là cuôc Thập tự chinh thứ 3. Mặc dù có một vài thành công về phía Thập tự quân nhưng Jerusalem vẫn nằm trong sự kiểm soát của Saladin. ĐGH Innocentio III kêu gọi một cuộc Thập tự chinh thứ 4 vào năm 1198, kết quả cuối cùng là một sự thất bại hoàn toàn, thay vì chiếm Jerusalem họ chiếm và cướp bóc Constantinople. Vào năm 1213, Innocentio kêu gọi một cuộc Thánh chiến xa hơn đó là cuộc Thánh chiến thứ năm, được triển khai vào những năm từ 1217 – 1221. Vào năm 1216 ĐGH Honorio III, người kế vị ĐGH Innocentio, đã thề là sẽ tiếp tục cuộc Thánh chiến như là một sự biểu lộ lòng cảm phục của mình đối với vị tiền nhiệm.
ĐGH Innocentio đã kêu gọi Thập tự chinh trong Tông thư Quia maior. Trong Tông thư này chúng ta thấy ĐGH Innocentio đã dùng mọi cố gắng để nhấn mạnh tầm quan trọng phải ủng hộ cuộc Thánh chiến, cả về vật chất lẫn tinh thần. Các cuộc rước được tổ chức hàng tháng để cầu nguyện cho việc giải phóng Jerusalem.Trong các cuộc cử hành Thánh lễ, cộng đoàn phải phủ phục xuống đất trước khi rước Mình Thánh, và phải hát Thánh Vinh 79: “Ôi lạy Chúa, dân ngoại đã xâm lăng phần gia nghiệp của Ngài”. Và vào cuối Thánh vịnh linh mục phải đọc một lời kinh đặc biệt để cầu cho việc giải phóng Đất Thánh khỏi tay “những kẻ thù của Thập giá”. Trong mỗi nhà thờ người ta đặt những thùng quyên góp để giáo dân có thể đóng góp cho nỗ lực chiến tranh. Nếu ai đóng góp sẽ được hứa ban ân xá các tội lỗi, tùy theo số tiền dâng cúng và mức độ của lòng đạo đức.
Trong thời gian chuẩn bị Thập tự chinh, người Hồi giáo được trình bày như kẻ thù của Chúa, ngay cả coi họ như ma quỉ. Đó là theo cách nhìn của Bernardo thành Clairvaux trong lời kêu gọi cho cuộc Thánh chiến (1146). Theo Bernado, cuộc Thập tự chinh cho người Kitô hữu cơ hội để chứng tỏ họ là môn đệ đích thực của Chúa Kitô bằng cách tham gia vào cuộc chiến.
Người hiệp sĩ của Đức Kitô phục vụ Đức Kitô khi họ giết kẻ thù. Hiệp sĩ của Đức Kitô mang khí giới không phải là không có lí do, vì họ là thừa tác viên của Chúa để trừng phạt những kẻ làm điều ác. Nếu họ giết một kẻ làm điều ác, họ không phải là kẻ giết người, nhưng có thể nói là kẻ giết sự ác. Người Kitô hữu được vinh danh trong cái chết của kẻ ngoại giáo, bởi qua cái chết Đức Kitô được vinh danh.
Và như thế, vào năm 1218, đạo quân Thập tự chinh đã đặt chân lên bờ biển của Ai cập và bao vây thành Damietta. Kẻ thù của họ là Sultan Melek-el-Kamil, cháu của Saladdin, người được mô tả là thông minh sáng suốt, ngoan đạo, và là biểu tượng của văn hóa thời đại lúc bấy giờ. Chính là ở Damietta mà Phanxico đã đặt chân đến năm 1219.
Có một số trình thuật về cuộc gặp gỡ giữa Phanxico và Sultan. Về tính xác thực lịch sử chúng ta có thể nói Phanxico đã vượt ranh giới với ý định rao giảng để Sultan trở lại và quay trở về doanh trại Thập tự quân an toàn. Một tác giả Ả rập của thế kỉ 15 cũng làm chứng một cách gián tiếp về cuộc gặp gỡ giữa hai người.
Tuy nhiên, để làm sáng tỏ ý nghĩa của cuộc gặp gỡ này, chúng ta cũng có thể xem xét một cách kĩ lưỡng bản tường thuật của Jacques de Vigny. Ông đã viết tường thuật này lúc Phanxico còn sống và chính ông đã thực sự gặp Phanxico ở Damietta. De Vitry nói rằng Phanxico tiếp tục đi từ Damietta, không hề hấn gì, đến doanh trại của Sultan. Trên đường đi, Phanxico bị người Saracens bắt, nhưng với lời tuyên xưng “Tôi là một Kitô-hữu” và với lời thỉnh nguyện muốn được dẫn tới Sultan, vì thế Ngài được đưa tới trình diện Melek-el-Kami. Ngài Sultan có vẻ thích thú khi đối diện Phanxico và lắng nghe Phanxico rao giảng về Đức Kitô. Cuối cùng Ngài Sultan bảo đảm cho Phanxico được trở về doanh trại Thập tự quân cách an toàn và xin Phanxico cầu nguyện để ông nhận được mặc khải của Chúa cho biết con đường đức tin nào là đẹp lòng Chúa nhất.
Ý NGHĨA CUỘC GẶP GỠ
Dẫu tính xác thực lịch sử theo mặt chữ của trình thuật De Vitry là thế nào đi nữa, thì điều có ý nghĩa là một cuộc gặp gỡ giữa một Kitô-hữu và một người Hồi giáo được mô tả bằng cách như thế vào một thời đại đặc biêt như vậy. De Vitry sống trong não trạng của thời đại và văn hóa lúc bấy giờ, nghĩa là não trạng của Thập tự chinh. Ông muốn biến cải người Sarasens trở thành Kitô-hữu. Nếu không làm được việc đó qua việc rao giảng thì cần thiết phải ủng hộ các cuộc Thập tự chinh để giải phóng Jerusalem khỏi sự chiếm đóng của những người sống trong lầm lạc. Sau khi Thập tự quân chiếm đóng Damietta vào năm 1219 De Vitry viết như sau:
Chúa đã mở rộng cửa cho chúng ta để làm chủ những người không tin và để mở rộng đế quốc của Đức Kitô, qua đó sau khi các sói dữ đã bị bắt và thẩy ra ngoài, vườn nho của Chúa (các đạo binh) sẽ được chăm sóc như một cánh đồng mới.
… Và ở đâu cái tên đáng nguyền rủa của thằng phản bội Mohammed được kêu cầu một cách quá thường xuyên – một cái tên đáng ghê tởm, mà miệng lưỡi của ma quỉ đã đặt cho – thì bây giờ người ta sẽ kêu cầu thánh danh Đức Giêsu Kitô.
Không phải vì Phanxico được coi như là một người thánh mà De Vitry đã trình bày cuộc gặp gỡ như cách ông đã làm. Như đã nói ở trên, Bernard de Clairvaux, có thể được coi là vị thánh nổi tiếng nhất của thế kỉ 12, đã lí luận rằng giết người theo đạo Hồi thì tốt hơn là để họ làm lan tràn sự ác.
Tường thuật của De Vitry viết trước khi Phanxico chết năm 1226, trong bối cảnh tôn giáo và văn hóa xem người Hồi giáo là ma quỉ, thì ta có thể xem đó là một chứng từ về tính chất đích thực của cuộc gặp gỡ giữa Phanxico và Ngài Sultan. Như thế ta có thể rút từ đó một vài điểm gợi ý về đối thoại liên-tôn.
Cần phải lưu ý rằng khi Phanxico đến với người Hồi giáo, Ngài không nói nghịch lại Mohammed; thay vào đó Ngài rao giảng về Đức Kitô. Lời Ngài nói “Tôi là một Kitô-hữu” đã lôi Ngài ra khỏi xung đột chính trị và đặt Ngài vào trong bối cảnh của một cuộc đối thoại tôn giáo. Không phải chỉ do những lời Phanxico nói đã tạo ra một bối cảnh như thế, nhưng còn là do tất cả những gì Ngài mang theo. Trái nghịch với một Thập tự quân, Phanxico đến doanh trại của Ngài Sultan không khí giới, “không có gì khác để bảo vệ ngoài khiên mộc của lòng tin” (De Vitry). Sứ vụ của Phanxico không có bất cứ ý nghĩa chính trị hay ngoại giao nào. Ngài siêu vượt các Thập tự quân và bỏ họ lại đằng sau. Đó là tư thế mà Phanxico đến trước Ngài Sultan.
De Vitry kể lại rằng Ngài Sultan: Bị ngập tràn ngây ngất bởi bộ dạng thanh thản của người của Chúa, đến độ ông cảm thấy tràn đầy sự dịu dàng. Trong nhiều ngày ông đã lắng nghe thật chăm chú khi Phanxico rao giảng về niềm tin vào Đức Kitô cho ông và các thuộc hạ.
Phản ứng của Ngài Sultan hàm chứa rằng Phanxico không hề nói xúc phạm đến tôn giáo của ông. Quả thật, có một sự đối nghịch với tường thuật của De Vitry cung cấp về cách đối xử đối với những người theo bước Phanxico khi họ đi xa khuôn mẫu rao giảng của Ngài.
Bao lâu mà Anh Em Hèn Mọn đạt được niềm tin vào Đức Kitô và giáo lí của Phúc âm, thì người Saracens sẵn sàng nghe họ giảng. Nhưng vừa lúc họ rõ ràng nói nghịch lại với Mohammed trong lời rao giảng bằng cách xem Mohammed như kẻ phản bội và dối trá, thì người Saracens sẽ đánh đập họ không thương tiếc, đuổi họ ra khỏi thành, và phần nhiều là giết họ.
Ngài Sultan hiểu rằng Phanxico tôn trọng tôn giáo của ông, ngay cả khi Phanxico nói với ông rằng, theo quan điểm của ngài thì con đường của Kitô-hữu làm đẹp lòng Chúa hơn. Theo quan điểm của Ngài Sultan thì tôn giáo khác nhau của đôi bên đều tôn thờ cùng một Thiên Chúa, như trong lời nhận định cuối cuộc gặp mặt với Phanxico: Xin Chúa mặc khải cho tôi biết lề luật và đức tin nào làm đẹp lòng Ngài nhất
Còn một điểm có ý nghĩa quan trọng nữa trong trình thuật của De Vitry. Phanxico thách thức Ngài Sultan hãy vượt qua những cơ cấu và tổ chức của con người đã trở nên bện chặt với niềm tin tôn giáo, để đi tìm sự tinh ròng của Đức tin. Phanxico đã bỏ lại sau lưng cơ cấu chính trị Kitô-giáo, được tượng trưng trong Thập tự chinh, để rao giảng về sự tinh ròng của niềm tin, đức tin vào Đức Kitô. Và Phanxico thách thức Ngài Sultan cũng hãy làm như thế, hãy vượt qua cơ cấu chính trị Hồi giáo để có thể đi đến việc trình bày dức tin của mình một cách tinh ròng. Mặc dù De Vitry trình bày Ngài Sultan đã không làm được điều đó, nhưng câu chuyện làm nổi rõ tính chất thiết yếu của đối thoại tôn giáo. Cuộc đối thoại này quan tâm trước hết không phải những cơ cấu (cấu tố) của con người thường bao quanh đức tin, nhưng quan tâm trước hết đến thực tại nằm ở trung tâm của một niềm tin tôn giáo riêng biệt.
Những nguồn tư liệu có được không cho phép chúng ta đo lường được hiệu quả của gặp gỡ này trên Ngài Sultan. Tuy nhiên, chúng ta có thể biện phân được ảnh hưởng khá lớn của cuộc gặp gỡ này trên đời sống tu trì (tôn giáo) và thực hành của Phanxico. Các di cảo của Ngài viết sau cuộc thăm viếng Ai-cập chứng minh rằng kinh nghiệm này đã ảnh hưởng sâu sắc lên cuộc đời của Ngài. Ngài thực sự bị đánh động bởi những thái độ của người Hồi giáo, lời kêu gọi cầu nguyện, lối tiếp cận Thiên Chúa siêu việt, lòng tôn kính sâu xa đối với sách Thánh Qur’an.
Lời kêu gọi và báo giờ cầu nguyện của “người canh giờ” (muezzin) đánh động Phanxico một cách sâu sắc. Trong Thư gởi các nhà lãnh đạo nhân dân, Phanxico viết:
(Trước mặt dân chúng mà Thiên Chúa đã ủy thác cho quí vị, quí vị hãy tôn vinh Người hết lòng) Hãy nhìn xem dân chúng của quí vị tôn kính Thiên Chúa biết là chừng nào; mỗi buổi chiều, xin quí vị nhờ một người thông tin hoặc dùng một dấu hiệu nào đó, để loan báo cho toàn dân biết bổn phận ngợi khen và tạ ơn Chúa, là Thiên Chúa toàn năng
Người báo giờ cầu nguyện (muezzin) có thể được thay thế bằng một quả chuông hay là bất cứ dấu hiệu nào đó thường dùng ở phương Tây để kêu gọi dân chúng cầu nguyện:
Bất cứ lúc nào, khi nghe chuông, toàn thể dân chúng khắp nơi hãy dâng lên Thiên Chúa toàn năng lời ngợi khen và tạ ơn. (Thư thứ nhất gởi các anh phục vụ)
Bằng cách này Kitô-hữu và người Hồi giáo trên toàn thế giới có thể đoàn kết trong cầu nguyện, là một dấu hiệu thuyết phục trong một xã hội mà nhiều người bị mù quáng bởi hận thù đối với Hồi giáo. Phanxico cũng thực hành cách người Hồi giáo phủ phục xuống đất hay bái lạy sâu để tỏ lòng tôn kính Allah. Trong một bức thư gởi Tổng tu nghị, Phanxico viết: “Khi nghe Danh Người, anh em hãy sấp mình xuống đất, thờ lạy với lòng tôn sùng và kính sợ…dể anh em dùng lời nói và việc làm…để dẫn đưa mọi người nhận biết chỉ có mình Ngài là Đấng toàn năng”. (Thư gởi toàn Dòng).
Cách diễn tả trong câu cuối rất giống với kinh “halma” của người Hồi giáo: “Không có Chúa nào khác ngoài Allah”.
Ý thức sâu xa hơn về tính siêu việt của Thiên Chúa cũng trở thành rõ ràng hơn vào giai đoạn này. Trong các di cảo thời đầu, Phanxico nhấn mạnh rất nhiều về nhân tính của Đức Kitô, được diễn tả ra trong việc tạo ra máng cỏ Giáng sinh ở Greccio. Đúng thế, có một sự phát triển rõ ràng dẫn đến Đấng Siêu việt sau khi Ngài trở về từ Damietta. Trong bản Luật năm 1221 Ngài viết:
Chỉ mình Ngài là Thiên Chúa thật… Không có khởi đầu và cùng tận, Ngài là đấng bất biến, vô hình, không mô tả nổi và không hình dung nổi, không thể hiểu thấu, không thể dò thấu được, Đấng chúc phúc và đáng được muôn lời ngợi khen.
Cú “sốc” của cuộc gặp gỡ làm dậy lên những giá trị tiềm ẩn trong Phanxico. Ngài được thúc đẩy để suy nghĩ lại về toàn bộ đức tin của mình và phát triển nó với yếu tố siêu việt.
Một kết quả khác của kinh nghiệm Phanxico với người Hồi giáo là cách thức Ngài nói về các bản văn của Kinh thánh Kitô-giáo. Kinh thánh cũng nhắc Ngài nhớ tới sự kính trọng sâu sắc của người Hồi giáo đối với lời được viết trong kinh Qur’an. Không lâu trước khi qua đời năm 1226, Phanxico viết trong Chúc thư:
Mỗi khi tôi bắt gặp những tấm giấy ghi chép Lời của Chúa ở một nơi bất xứng. tôi muốn thu lại và xin người ta thu lại và để vào nơi xứng đáng.
Thái độ mới của Phanxico được diễn tả trong chương 16 của Bản luật 1221 khi Ngài nói với các anh em muốn trở thành nhà truyền giáo cho người Hồi giáo, họ phải làm chứng về đức tin Kitô-hữu bằng sự hiện diện đơn sơ và hòa bình và với một tinh thần phục vụ.
Chương này bắt đầu bằng một câu Kinh thánh: “Thầy sai anh em đi như chiên vào giữa bầy sói”. Phần nhiều các cuộc cổ động cho Thập tự chinh nói về người Saracens như “sói rừng” hay “thú dữ”, chắc chắn là Phanxico và các anh em đã từng nghe. Không có gì nghi ngờ là Phanxico và các anh em cũng đã từng có hình ảnh như thế về người Saracens. Nhưng họ đã khám phá rằng các hình ảnh đó là sai lầm qua việc dấn thân với Hồi giáo. Phanxico đã ra đi như một con chiên, không vũ khí, không mang theo gì ngoài “khiên thuẫn của đức tin”. Và Ngài đã có kinh nghiệm rằng sói rừng không chỉ là thú dữ độc ác, chúng tàn sát tất cả những gì gặp trên đường. Ra đi với tinh thần tùng phục và phục vụ, chứ không phải quyền lực và thống trị, Phanxico đã khám phá ra rằng chiên và sói có thể sống với nhau trong hòa bình, dẫn đến cuộc tạo thành mới.
Các anh em phải sống một cách “tinh thần” giữa những người Saracens. Sự hiện diện của họ phải là một sự hiện diện “trong tinh thần của Chúa”. Ở đây, kinh nghiệm tôn giáo của Phanxico nằm ở trung tâm, kinh nghiệm về đấng mà Ngài tin như là Thiên-Chúa-con người, là chính Đức Giê-su Kitô, và cách thức mà đức Kitô đã thực sự sống. Đối với Phanxico, sự hiện diện “trong tinh thần của Chúa” là một sự hiện diện diễn tả những phẩm chất đã được Đức Giê-su Kitô sống, đó là phẩm chất của khiêm nhường và hòa bình. Các anh em không được đi vào các lí luận lí chứng hay các cuộc cãi cọ, nhưng hãy “tùng phục mọi người” như Đức Kitô đã tùng phục. Ý niệm “tùng phục” là rất quan trọng có tính quyết định. Đó là cách thức mới để sống với con người và thế giới, chứ không phải trên căn bản của bạo lực và quyền thế, nhưng trong tinh thần của tình yêu và dịu dàng. Phanxico thấy mục đích của cuộc sống như là “tùng phục mọi người”, đó là mục đích cơ bản: Ngài đã giới thiệu một cách tiếp cận con người mới, đi ngược lại với cách sử dụng quyền lực thống trị đánh dấu tính chất của những mối tương quan xã hội thời bấy giờ – và vẫn còn tiếp tục khá phổ biến!
NHỮNG DẤU ẤN CỦA KINH NGHIỆM GẶP GỠ TÔN GIÁO ĐỐI VỚI CUỘC ĐỐI THOẠI LIÊN ĐỨC TIN
Cuộc gặp gỡ giữa Phanxico và Ngài Sultan có thể được dùng như là một Mô hình học hỏi cho đối thoại liên-đức tin. Điều được trình bày ở đây là một thí dụ về một ý niệm thần học mà Bernard Lonergan đã sử dụng: “trở về với Siêu việt”
Trở về với Siêu việt hàm ý một sự quay lưng lại với đức tin vào những cấu trúc mà con người dựng lên thường bao bọc tâm điểm dấn thân tôn giáo, để lên đường đi tìm chân lí nằm ở trung tâm của Thực Tại Cơ Bản, đó là Thiên Chúa. Cuộc trở lại đó là hãy bỏ qua quá khứ và mở rộng triệt để cho tương lai như nó đang đến. Có nghĩa là nhìn chân lí không phải như một cái gì đã đạt được trọn vẹn nhưng như một Thực tại còn cần phải nắm bắt. Ý thức về sự hiện diện của siêu việt trong nhiều hình thái dẫn đên sự quí trọng những truyền thống tôn giáo và thúc đẩy đối thoại với các truyền thống ấy như là tăng trưởng sự quí trọng Chân lí.
Lonergan nói “Trở về với siêu việt” có thể dẫn đến một quá trình mà ông gọi là “thăng hoa” (sublation), Lonergan giải thích: “(Thăng hoa)…giới thiệu một điều gì mới và riêng biệt (distinct), đặt tất cả trên một nền tảng mới, vẫn còn khác xa với sự can thiệp vào điều được “thăng hoa” hay phá hủy nó, trái lại cần đến nó, bao gồm nó, giữ lại tất cả những hình thức và tính chất đặc biệt của nó và đưa chúng đến một sự thể hiện tràn đầy hơn trong một bối cảnh phong phú hơn” (Lonergan, Phương Pháp Thần học, tr.241).
Trong mức độ tối đa có thể cuộc gặp gỡ chắc chắn mang đến cho Phanxico và Ngài Sultan một sự “trở lại với siêu việt”, điều có giá trị ở đây là nó minh họa các năng động của sự tăng trưởng trong niềm tin tôn giáo đại kết. Chúng ta thấy tỏ hiện rõ loại niềm tin tôn giáo có tính cách phát triển, bao gồm chia sẻ thực hành tôn giáo, được đặt nền tảng trên sự thánh thiện của cá nhân và có tính chất yếu tính.
Đức tin của Phanxico bị ảnh hưởng mãnh liệt qua kinh nghiệm Damietta. Một cái tôi cảm thông mới đã trổi dậy trong khi Ngài phát triển một ý thức mới về tương quan tôn giáo của mình không phải chỉ với các anh chị em Kitô-hữu mà thôi nhưng còn đối với mọi người. Trong khi vẫn trung thành với truyền thống tôn giáo và rao giảng niềm tin vào Đức Kitô của mình, Phanxico mở lòng ra với sự tốt đẹp tìm thấy nơi truyền thống và đức tin của Hồi giáo. Như thế Ngài tìm cách khám phá một ý nghĩa siêu việt sâu hơn trong đức tin của mình qua những gì Ngài đã trải nghiệm trong đức tin Hồi giáo. Phanxico hiểu ra rằng ý nghĩa tôn giáo và chân lí trong cuộc sống của người Hồi giáo và từ đó sai anh em đi đến với người Hồi giáo không phải như những thập tự quân nhưng như là những Kitô-hữu, vâng lời và tùng phục mọi người. Trong chính cuộc sống của mình, Phanxico đã đi đối thoại với Hồi giáo và qua suy tư về kinh nghiệm đó, Ngài truyền đạt mô hình đối thoại của mình cho những người đi theo Ngài.
Trong Bản luật 1221 Phanxico kêu gọi những anh em muốn đi đến với người Hồi giáo “…tránh tranh cãi hay chống báng”. Rõ ràng là điều xẩy ra trong cuộc gặp gỡ với Ngài Sultan chăc chắn không phải là những lí luận về những cấu trúc hay những mệnh đề của con người đặt ra. Thật ra, Phanxico đặt mình ra ngoài giới hạn đó và thúc giuc Ngài Sultan cũng làm như thế. Đề tài chính là quà tặng ơn cứu rỗi như là phẩm chất mới và tốt hơn của cuộc hiện sinh, và điều đó được diễn tả trong lời cầu xin cuối cùng của Ngài Sultan mong được Chúa mặc khải cho biết con đường nào làm đẹp lòng Chúa hơn.
Điều chúng ta thấy nổi lên ở đây là những điều kiện cho một cuộc đối thoại liên đức tin thực sự. Trong qúa trình trở về với siêu việt, cần phải có sự sẵn sàng tránh thái độ thống trị và từ bỏ những ý tưởng sai lầm – như Phanxico đã làm là đã bỏ đi chuẩn mực của Thập tự chinh vào thời đó, và như Ngài Sultan đã làm là đón tiếp Phanxico với lòng hiếu khách và để Ngài trở về an toàn. Trong hoàn cảnh này không có người chinh phục hay người bị chinh phục, nhưng chỉ có cố gắng đi đến một sự hiểu biết chung về một chân lí cao hơn. Phanxico đi đến niềm tin rằng cả Hồi giáo nữa cũng có chỗ đứng trong chương trình của Chúa. Mỗi truyền thống nhận thức rằng truyền thống kia cũng tiếp xúc với Đấng linh thiêng – Ngài Sultan xin Phanxico cầu nguyện cho mình và Phanxico cầu xin cho các Kitô-hữu hợp nhất trong cầu nguyện với mọi người trên toàn thế giới. Đối thoại đã mở đường cho cuộc trở về liên tục với siêu việt.
Cuộc đối thoại giữa Phanxico và Ngài Sultan diễn ra trong một bầu khí kính trọng lẫn nhau. Điều xẩy đến trước tiên có thể là cuộc gặp gỡ giữa những nhân cách. Sử gia Christopher Dawson viết:
Chúng ta tìm thấy ở nước Ý có một sự đồng hóa thật sự sâu sắc và tinh thần với những lí tưởng của nền văn hóa cung đình qua cuộc sống tinh thần của Kitô-giáo thời Trung cổ. Chúng ta thấy điều đó trên hết trong trường hợp của Thánh Phanxico. (Christopher Dawson, Religion and the Rise of Western culture, tr.188)
Sự phát triển của nền văn hóa cung đình tỏ hiện ra trong sự thâm nhập của các hình thái văn hóa Hồi giáo phía nam vào trong Kitô-giáo thời Trung cổ, đó là những hình thái văn hóa mà Melek-el-Kamil cũng chịu ảnh hưởng. Như thế cuộc gặp gỡ giữa Phanxico và Ngài Sultan có thể là một một cuộc gặp gỡ khởi đầu của những tinh thần, một sự tôn trọng hỗ tương đối với căn tính của đối tác, đó là điều xẩy đến đầu tiên trước mọi chất vấn về niềm tin tôn giáo. Sự tôn trọng như thế có nghĩa là điều xẩy ra trong cuộc trao đổi không phải là thù ghét đối với đối tác này hay cảm tình vuốt ve đối với đối tác kia. Cũng không phải là sự khinh miệt đối với niềm tin, truyền thống và phong tục khác. Nền tảng của sự kính trọng hỗ tương mở ra một sự lựa chọn rộng lớn hơn của thế giới tôn giáo đã ảnh hưởng đến một cá nhân thông qua trung gian của một người khác. Và đến lượt điều này cấu thành tiến trình đối thoại liên tôn.
4. Một Đức tin đi vào yếu tính
Điều cốt yếu trong một niềm tin tôn giáo đôi khi có thể bị che phủ bởi nhiều giai tầng bên ngoài đã được hình thành do những tranh cãi thần học (theological jousting). Một thứ thực hành như thế là điều cấm kị đặc biệt đối với Kinh Qur’an và cũng không hề thấy trong cuộc đời của Phanxico. Các anh em của Ngài được khuyến cáo là hãy tránh mọi cuộc tranh cãi. Điều cốt yếu là rao giảng niềm tin vào Thiên Chúa Cao cả, (là thuộc tính thần linh được nhấn mạnh nhất trong Hồi giáo) và làm chứng cho đức tin bằng một lối sống hòa bình.
Khi nhấn mạnh đến điều cốt yếu trong đức tin của Kitô-hữu, Phanxico tuyên xưng Tình Cha phổ quát của Thiên Chúa như là suối nguồn của tinh thần huynh đệ đại dồng. Ngài đã đặt mình cùng phía với người Hồi giáo khi họ xem điểm đến của cuộc tìm kiếm sự toàn vẹn và toàn nhập vào Thực tại và Đơn vị cơ bản là chính Thiên Chúa. Cuộc đối thoại giữa các truyền thống là làm sao để có thể đạt đến một sự hòa giải phổ quát, một cuộc đối thoại như thế sẽ mang đến một sự hiểu biết sâu hơn và phong phú hơn đâu là điều cốt yếu của con người.
Kinh nghiệm về cuộc gặp gỡ tôn giáo giữa Phanxico và Ngài Sultan làm nổi lên các đề tài quan trọng cho việc phát triển một nền thần học đối thoại giữa các đức tin.
-Sự phát triển của cảm thông dưới ánh sáng của kinh nghiệm mới.
-Ước muốn chia sẻ các câu chuyện đời mình và đẩy lùi các thành kiến và đôi khi các ý tưởng sai lầm.
-Sự cần thiết của sự tôn trọng hỗ tương để tránh phủ nhận và bạo lực.
-Sự cần thiết nhận diện điều cốt yếu mà mình tin để có thể thực sự đối thoại với người khác.
BÀI II: CẦU NGUYỆN VÀ CHIÊM NGƯỠNG
Seamus Mulholland, OFM
Cầu nguyện và chiêm ngưỡng nằm ở trung tâm của linh đạo Phan sinh. Dĩ nhiên, chiêm ngưỡng nối kết mật thiết với đời sống cầu nguyện, mà Bonaventura mô tả như “mẹ và nguồn suối của cuộc đi lên”
Vì hạnh phúc không gì khác hơn là vui hưởng sự thiện cao cả nhất và vì sự thiện cao cả nhất thì ở trên cao, không ai có thể hạnh phúc trừ khi người ấy vượt lên chính mình., không phải là một cuộc đi lên của thể xác, nhưng là cuộc đi lên của tâm hồn. Nhưng chúng ta không thể vượt lên chính mình nếu không có một thế lực cao hơn nâng ta lên. Bất kể sự tiến bộ nội tâm đã đạt đến mức nào, không có gì phát xuất từ đó, nếu không có sự trợ giúp thần linh. Sự trợ giúp thần linh luôn sẵn sàng đó cho những ai kiếm tìm nó từ con tim của mình, và điều đó có nghĩa là tìm kiếm nó qua lời cầu nguyện sốt sắng (Itinerarium, 1,1).
Cầu nguyện không nằm ở (liên hệ nhiều) vấn đề đọc kinh, nhưng là vấn đề hướng lòng lên Chúa: “Nên nhớ rằng không phải là các em không mệt mỏi với một số kinh phải đọc, nhưng là đạt được sự mộ mến nội tâm.” (Hướng dẫn các Tập sinh 11.5)
Chiêm ngưỡng từ nền tảng là vấn đề chú tâm đến “người khác”. Điều đó kéo theo việc khám phá người kia là thật (nói cách khác cái có thật không phải chỉ là tôi) và từ đó học yêu mến. Đây là một bài học quan trọng, không phải chỉ cho chúng ta đang tụ họp nơi đây hôm nay, nhưng cho cả thế giới chúng ta đang sống. Một thế giới dễ mất lối đi vì nó đã đánh mất khả năng chú tâm vào cái có thật. Nhà lãnh đạo vĩ đại người Czech đã nói như thế này sau khi Liên bang Sô-viết sụp đổ: “Trong khi các nhà chính trị và các cuộc hội thảo quốc tế có thể lặp đi lặp lại hàng nghìn lần rằng nền tảng của một trật tự thế giới mới phải là sự tôn trọng nhân quyền, nhưng những thế giới này chẳng nghĩa lí gì nếu như lời kêu gọi cấp bách này không phát xuất từ sự chiêm niệm về phép lạ (sự lạ lùng) của Hiện hữu”. (Vaclav Haven)
Clara đã tập trung sự chú ý vào “người khác”, vào phép lạ (sự lạ lùng) của Hiện hữu. Sự huyền nhiệm của Hữu hữu đã thể hiện cụ thể trong con người của Đức Giê-su Kitô. Đối với Clara, chiêm ngưỡng phép lạ của Hiện hữu là chiêm ngưỡng đấng mà cuộc sống của Ngài là một cuộc mặc khải cho chúng ta về sự Thiện và sự Mỹ vô hạn, đã có từ trước khi có thời gian và lịch sử. Clara viết cho Agnes như sau: “Hãy nhìn chăm chú vào Ngài, hãy ngắm nghía, hãy chiêm ngưỡng Ngài…Hãy đặt tâm trí trước chiếc gương vĩnh cửu! Hãy đặt linh hồn chị vào ánh sáng chói lòa của vinh quang! Hãy đặt trái tim chị vào trong hình ảnh của bản thể thần linh! Và hãy biến đổi toàn hữu thể của chị vào chính hình ảnh của Thiên Chúa qua chiêm ngưỡng.” (3L.Ag 12,13)
Chiêm ngưỡng không phải là một hoạt động mà ta có thể làm được chỉ qua cố gắng của ta. Trước hết đó là một hoạt động của Thiên Chúa, một hoạt động mà Bonaventura đồng hóa với khôn ngoan, một sự khôn ngoan có thể được qui về phẩm chất của sự khôn ngoan, nhưng trên tất cả là được qui về sự mặc khải của Thiên Chúa trong Đức Kitô, là Thầy dạy nội tâm. “Khôn ngoan là ánh sáng đến từ Cha của mọi Ánh sáng trong linh hồn, và bằng cách phát sáng từ đó làm nó trở thành hình thái của Thiên Chúa và là nhà của Thiên Chúa.” (Collations 2.1)
Như là một phẩm chất, Bonaventura nối kết sự khôn ngoan với sự thông hiểu đúng đắn. Về điểm này, hoạt động trí thức hay lý luận được đưa vào chiêm ngưỡng.
Khởi đầu phải hiểu để có thể đạt tới sự khôn ngoan. Với bánh hằng sống và thông hiểu, Chúa nuôi con người: “và cho con người thứ nước của sự khôn ngoan toàn diện để uống. Trước hết cần đến thức ăn, chứ không phải thức uống. Chỉ khi họ đã được huấn luyện trong ân ban về thông hiểu, họ mới có thể tiếp tục chuyển sang uống nước khôn ngoan, nước ấy sẽ làm ra nguồn suối chảy trong linh hồn, và linh hồn có thể uống nước suối ấy, và sẽ trở thành một giếng nước vọt lên đến sự sống đời đời.” (Collations 3.1)
Tuy nhiên, hiểu biết không phải tự nó là một cùng đích. Chiêm ngưỡng bằng trí thức bao gồm việc tìm kiếm để hiểu biết đối tượng mà ta chiêm ngưỡng, nhưng đỉnh cao của tìm kiếm sự hiểu biết là làm dậy lên sự kinh ngạc thán phục. Chương 5 của Itinerarium quan tâm đến những lí luận về bản tính của Thiên Chúa như là Hiện hữu. Sau khi nói đến một số điều đáng quan tâm, Bonaventura viết: “Nhưng bạn có một điều gì đó ở đây để nâng tâm hồn lên với sự kinh ngạc…Nếu bạn kinh ngạc với điều này với một tâm trí trong sạch, bạn sẽ được ngập tràn với một ánh sáng lớn hơn.” (Lộ trình 5,7)
Như thế, hiểu biết bao gồm sự quan tâm: “Chúng ta không thể hiểu biết trừ khi chúng ta quan tâm xem xét sự vật từ đâu đến, chúng đi đến kết cuộc như thế nào, và Thiên Chúa soi sáng chúng như thế nào” (Collations 3,2)
Chúng ta được hướng tới sự quan tâm đến thế giới như chúng tỏ hiện ra trước mặt ta: “Có một sự hài hòa và trật tự trong những vật được tạo thành…và trong sự hài hòa đó chúng ta có thể thấy một dấu vết, và khôn ngoan được tỏ hiện ra, như bàn chân để lại dấu vết. Và dáu vết này dẫn đến sự Khôn ngoan Thần linh”. (Collations 2.23)
Và thêm nữa: “Tạo vật được dựng nên giống hình ảnh của Chúa…Và như thế có vẻ như là thế giới giống như một tấm gương, đầy những vật thể sáng đứng trước sự Khôn ngoan Thần linh, tỏa ra ánh sáng như than hồng”. (Collations 2.27)
Để giúp ta đạt được sự hiểu biết đích thật thông qua chiêm ngưỡng thế giới chung quanh ta, chúng ta được Thiên Chúa tặng ban Kinh thánh:
“Cái đẹp của Khôn ngoan được nhìn dưới nhiều mặt trong các huyền nhiệm của Kinh thánh…Sự khôn ngoan của Thiên Chúa tỏ hiện ra một cách đẹp nhất trong những huyền nhiệm đó” (Collations 2.8,18)
Bonaventura mô tả Kinh thánh như: “…một cuộn giấy “viết bên ngoài” , vì nó chứa đựng nhiều câu chuyện đẹp và dạy chúng ta về ý nghĩa đích thực của các sự vật, và cũng “viết bên trong”, vì nó chứa đựng những huyền nhiệm và có thể giải thích bằng nhiều cách khác nhau.” (Collations 12.14)
Cũng như Phanxico và Bonaventura, chúng ta hiểu biết thông qua chiêm niệm về những lời của Kinh thánh khi chúng liên hệ đến thế giới của chúng ta: “Vì linh hồn là thiên đường, là khu vườn, mà Kinh thánh đã được trồng vào…Khôn ngoan Vĩnh cửu yêu mến khu vườn ấy và cư ngụ ở đó. Khôn ngoan Vĩnh cửu cũng tưới nước qua Thần khí trong mình chảy ra. Kinh thánh cũng có giòng chảy ấy và chúng ta thấy nó đó. Đó là những cây thật đẹp để chiêm ngắm và thật ngọt để nuôi sống vì vẻ đẹp và hương vị của hoa trái chúng.” (Collations 17.5)
Chiêm ngưỡng không phải là tách biệt với phần còn lại của của cuộc sống. Chiêm ngưỡng liên kết thâm sâu với lối sống của chúng ta. Một cuộc sống chiêm niệm cũng là một cuộc sống nhân đức. Nếu một người không có nhân đức, thì người ấy không phải là một người chiêm ngưỡng đích thực, một con người của khôn ngoan.
Chúng ta trở nên khôn ngoan không chỉ là nhờ lắng nghe: chúng ta cũng cần phải tuân thủ. Vì thế Thánh vịnh về khôn ngoan nói rằng: “Xin dạy tôi điều thiện hảo và kỉ luật và sự hiểu biết. Vì không có sự hiểu biết nếu trước đó không có kỉ luật, và cũng không có kỉ luật nếu trước đó không có sự thiện hảo. Như thế, chỉ thông qua sự thiện hảo và kỉ luật mà sự hiểu biết ngự trị trong ta. Một người bệnh không thể khỏi bệnh nếu chỉ nghe bác sĩ, nhưng phải theo chỉ định của người chữa trị.” (Collations 2.3)
Đời sống chiêm ngưỡng phải có kỉ luật. Và đâu là bản tính của kỉ luật? “Sự ham muốn thiết tha có được kỉ luật làm nẩy sinh tình yêu. Như thế sự chú ý đúng đắn vào kỉ luật là chính tình yêu. Vì nếu ta yêu kỉ luật, ta yêu nhân đức trong ta và trong người khác và trong chính Nguồn gốc. Tuy nhiên, kỉ luật không áp đặt, và hoạt động qua tình yêu, chứ không phải qua sợ hãi. Nếu ta khó nghèo như kết quả của kỉ luật (mà ta tuân giữ), thì ta phải yêu sự khó nghèo. Các sự toàn hảo khác cũng áp dụng theo một cơ chế như thế.” (Collations 2.4)
Và chính là qua tình yêu ta đến được đỉnh cao của chiêm ngưỡng, đó là chiêm ngưỡng cảm tình: “Qua tình yêu chúng ta được ban cho những gì chúng ta đang thiếu thốn; qua tình yêu, người được chúc phúc sẽ được ban cho tràn đầy thiện hảo; và qua sống thực, đạt đến sự hiện diện đáng mong ước nhất của Đức Lang quân.” (The Triple Way 1.16).
Bonaventura phân biệt tri giác đạt được qua tình yêu Thiên Chúa (ân sủng) và tất cả các tri giác khác: “Bây giờ sự chiêm ngưỡng này xẩy ra qua ân sủng…và đó là sự hiệp nhất cao cả nhất của tình yêu. Và thánh Tông đồ nói rằng nó chỉ có thể xảy đến qua tình yêu mà thôi: qua đó, khi cắm rễ và đặt nền tảng trong tình yêu, ta có thể thấu hiểu được cùng với các thánh về chiều rộng, chiều dài, chiều cao, và chiều sâu. Một tình yêu như thế làm siêu việt mọi trí năng và mọi khoa học.” (Collations 2.30).
Tình yêu được nối kết với “sự cắt đứt” , cắt đứt với lòng kiêu ngạo, được minh họa trong tình yêu cho đi trọn vẹn, đó chính là cây Thập giá.
Tình yêu tiên vàn phải chối từ (sự chối bỏ phải luôn luôn đi trước tình yêu). Vì thế Moisen trước hết phải chia tách khỏi các trưởng lão, rồi đi lên núi, và cuối cùng đi vào đám mây. Một thí dụ khác: một nhà điêu khắc không bao giờ thêm vào một cái gì, ngược lại, ông ta đục bỏ chất liệu, để lại hình thể trang trọng và đẹp của đá. (Collations 2.23)
Để chiêm ngưỡng Đức Kitô chịu đóng đinh như Phanxico đã làm, đó là đánh thức các cảm tình và truyền cảm hứng cho tình yêu. Điều này không thể xẩy đến qua trí năng:
Vì Đức Kitô sẽ bỏ đi khi trí óc cố gắng nắm bắt sự khôn ngoan này qua đôi mắt trí năng; vì không phải trí năng có thể đi vào đó, nhưng là con tim… Không phải chúng ta phải có ngọn lửa này (kinh nghiệm về Chúa) trong khả năng của ta; nhưng bởi vì nếu Chúa ban cho ngọn lửa ấy từ trên cao, thì chúng ta có bổn phận phải nuôi dưỡng nó và chêm thêm củi vào bằng phương cách cầu nguyện. (Collations 2.32)
Để hoàn thành lộ trình đến Thiên Chúa: “Đức Kitô là đường và là cửa vào; Đức Kitô là cái thang và là chiếc xe, như Nắp Xá Tội(Mercy Seat) (xem Xh 40,20 – người dịch) trên hòm bia Thiên Chúa. Ai qui hướng trọn vẹn mặt mình về Ngai Thương Xót và với lòng tin, hi vọng và tình yêu, sốt sắng, thán phục, ca ngợi, cảm kích, chúc tụng và niềm vui sẽ ôm lấy Ngài đang treo trên cây thánh giá. Một người như thế đã làm một cuộc vượt qua, một cuộc Vượt qua với Đức Kitô” (7.1,2).
Ở đây chúng ta không nói đến suy tư trí thức về Đức Kitô chịu đóng đinh. Bonaventura nhấn mạnh là ta phải bỏ lại đằng sau tất cả mọi sinh hoạt trí thức. Không, điều chúng ta quan tâm là một sự đồng hóa trọn vẹn trong tình yêu với Đấng chịu đóng đinh, là đấng đã yêu thương chúng ta trước. Chính vì thế sự tham dự của affectus (tình cảm), ước muốn, là rất quan trọng. Đó là lối chiêm ngưỡng được Clara nói đến một cách sinh động và nồng nhiệt: “Hãy ôm lấy Đức Kitô nghèo khó. Hãy nhìn lên Ngài, đấng đã trở thành người đáng khinh bỉ vì chị. Hãy chăm chú vào Ngài. Hãy chiêm ngưỡng Ngài. Như chị ao ước bắt chước Ngài.” (2L.Ag 18-21)
Đó chính là sự đồng hóa trọn vẹn của toàn thể con người với Đức Kitô chịu đống đinh, một sự đồng hóa mà Phanxico đã thực hiện trong các dấu thánh. Chính bằng con đường đó, con đường mà Phanxico và Clara đã đi, mà lộ trình lên cùng Thên Chúa được hoàn tất.
Kinh nguyện và Kinh thánh – Lignum Vitae (Cây sự sống) của Bonaventura
Bonaventura sử dụng Kinh thánh không chỉ vì mục đích học thuật. Không, mục đích của việc đọc Kinh thánh là để lớn lên trong sự thánh thiện. Về kiến thức đạt được qua việc học hỏi Kinh thánh, Bonaventura tin rằng tư tưởng con người cần phải tìm định hướng trong sự hiểu biết về Thiên Chúa (nội dung của Thần học), và kết quả là Ngài chống đối mạnh mẽ sự tách biệt giữa sự hiểu biết đạt được qua lí trí và sự hiểu biết Thiên Chúa. Hơn nữa, đối với Bonaventura, sự hiểu biết Thiên Chúa trước hết không phải là sự hiểu biết trí thức về Thiên chúa – từ thâm sâu đó là tình yêu Thiên Chúa. Trong Bình luận về các Luận đề, Ngài viết: “Kiến thức được trình bày trong sách này thuộc loại này. Vì kiến thức này giúp cho đức tin, và đức tin này thì liên hệ đến trí năng, trong cách thức là kiến thức này tự nó là cao cả, mà bản chất là để đánh động tình cảm. Và điều này thật rõ ràng. Vì kiến thức này cho chúng ta biết rằng Đức Kitô đã chết cho chúng ta, và những điều tương tự, kiến thức này đánh động và dẫn đưa một con người đến với tình yêu… Vì thế, cần phải thừa nhận rằng chúng ta suy tư thần học để chúng ta có thể trở thành những con người tốt.” (1Set. Prooe.q.3, [1:13]
Điều này được minh họa thật sáng sủa và thông minh trong tác phẩm Cây sự sống,đã trở thành nguồn cảm hứng cho những bậc thầy về linh đạo về sau như Ignatius Loyola. Tác phẩm này được viết vào năm 1260 là một loạt suy tư và suy niệm về sự sống, sự chết, và sự tôn vinh Đức Giê-su Kitô. Tác phẩm lấy khởi điểm từ chương 4 của Itinerarium, mặc khải trong Đức Giê-su Kitô về các chiều sâu thẳm của mầu nhiệm Thiên Chúa. Lignum Vitae cho ta thấy rằng đây không chỉ những bài giảng của Bonaventura mà còn là một chứng từ về đời sống cầu nguyện và lối sống của Ngài.
Bonaventura nhấn mạnh rằng trong cầu nguyện ta cần phải là con người của ước muốn. Cây Sự Sống là một công trình được viết ra chính là để làm bừng lên ước muốn đó. Mục đích là đưa ta vào những bản văn Kinh thánh và đi sâu vào đó và cảm nhận được những sự phong phú chứa đựng trong đó, mà không lướt qua các bản văn một cách vội vã.
Ý NGHĨA BIỂU TƯỢNG CỦA “CÂY SỰ SỐNG”
Được tìm thấy trong Kinh thánh: Sáng thế 2:9; 3:22,24; Cách ngôn 3:18; 11:30; 15:54; Khải huyền 2:7; 22:2, 14, 19. Là một hình ảnh được dùng trong cả cuốn thứ nhất và cuốn cuối cùng của bộ Kinh thánh nên hình ảnh này là một biểu tượng của mối tương giao của nhân loại với Thiên Chúa, bị méo mó bởi sự bất tuân của tội lỗi, nhưng được tái tạo qua hành động của Thiên Chúa, hành động của ân sủng. Trong sách Sáng thế, tội lỗi chia tách con người khỏi cây đó và mối tương quan với Thiên Chúa bị méo mó. Sách Cách ngôn nhắc nhớ cho chúng ta rằng điều thiệt hại cho con người bao gồm một sự mất mát về khôn ngoan – mà sự khôn ngoan được liên kết với Cây Sự Sống. Cuối cùng trong sách Khải huyền, chúng ta thấy hành động tái tạo và sự trở lại của các lời chúc phúc trong Vườn Địa Đàng nguyên thủy. Cây Thánh giá của Đức Kitô trở thành Cây Sự Sống mới, con đường mới đưa đên sự sống đời đời.
Trong cuốn Bình luận về các Luận đề (II Sent.d.17, dub.IV) Bonaventura phân biệt cây Biết lành Biết dữ (Cây trái cấm) và Cây Sự Sống. Ngài lí luận rằng Thiên Chúa đã đặt hai cây này vào giữa vườn địa đàng, cây này sát cây kia, để đối nghịch giữa chúng và cho Adam và Eva hai động cơ khác nhau để vâng phục. Họ có thể đi theo ý muốn của Thiên Chúa bằng lí do sợ hãi khi họ thấy cây trái cấm hoặc họ tuân theo ý muốn của Ngài bằng lí do tình yêu khi họ thấy cây sự sống.
Bonaventura dùng hình ảnh này mục đích chính là mời gọi ta suy tư về tình yêu Thiên Chúa được tỏ bày trên thập giá, nhưng trên tất cả là tỏ bày những mối liên hệ thân thiết mà Thiên Chúa đã thiết lập với ta trong Đức Kitô. Lignum vitae trình bày cho độc giả cây sự sống có 12 cành và mỗi cành đều mang hoa trái. Chúng ban tặng cho ta trái cây để thưởng thức để khi ta ăn trái cây đó ta có thể luôn luôn được thỏa mãn mà không bao giờ chán. Trái cây được ban tặng đơn giản là tình yêu của Đức Kitô, nhưng trái cây đó được chia thành mười hai loại khác nhau (phạm trù) tùy theo sự bổ dưỡng đặc biệt mà nó mang lại cho ta qua suy niệm và chiêm ngưỡng.
Như thế, mười hai trái cây và mười hai chương được chia thành ba nhóm, mỗi nhóm gồm bốn loại theo ba chủ đề: nguồn gốc của Đức Kitô, cuộc khổ nạn của Đức Kitô, và vinh thăng của Đức Kitô. Nhóm một bàn về nguồn gốc của Đức Kitô, sự khiêm hạ, sự cao cả của quyền năng, và sự viên mãn của lòng sốt sắng; nhóm hai nghiên cứu sự tin tưởng của Đức Kitô trong thử thách, sự kiên nhẫn trong khi chịu ngược đãi, sự kiên định trong khổ hình, và chiến thắng trên sự chết; và nhóm ba khám phá cuộc phục sinh của Đức Kitô, lên trời, phán xét, và vương quốc.
Khi phân chia tác phẩm thành ba phần ít nhiều bằng nhau, Ngài làm cho phần nói về cuộc khổ nạn trở thành trung tâm điểm của toàn bộ tác phẩm. Một lần nữa điều đó cho thấy Ngài xác tín rằng thập giá của Đức Kitô phải là trung tâm của cuộc sống, nằm ở điểm trung tâm của trái tim các tín hữu.
Trong phần trên đã nói rằng Bonaventura có trong tâm trí hai mục tiêu khi viết các khảo luận về tâm linh: Ngài mong muốn kích thích tâm trí của người đọc, bằng cách dạy về công cuộc cứu độ của Đức Kitô; Bonaventura mong ước làm cháy lên ngọn lửa trong con tim người đọc, bằng những ngôn từ nồng nhiệt và đầy cảm xúc để làm cho người đọc gặp gỡ cá nhân với Đức Kitô và lôi kéo người đọc đến gần hơn với Đức Kitô trong nhân tính của Người. Các cảm xúc được khuấy động lên không phải như là những mục đích tự thân nhưng là để làm nổi lên một sự đáp trả tinh thần sâu xa hơn. Ta được đánh động để đi đến nỗi buồn hay niềm vui để đạt tới một sự hiểu biết lớn hơn và có kinh nghiệm cá nhân với Đức Kitô.
Rõ ràng là trí tưởng tượng có chỗ đứng quan trọng trong chiêm ngưỡng. Như Bonaventura mô tả các quang cảnh, Ngài đề nghị ta hãy tưởng tượng ta đang ở ngay đó bên cạnh Đức Kitô, như là chứng nhân trực tiếp. Ta phải để cho trí tưởng tượng đưa ta đi sâu vào sự hiểu biết về Đức Kitô và như thế ta lớn lên trong tình yêu. Sử dụng trí tưởng tượng, ta có thể thấy xa hơn đôi mắt thông thường. Ta không chỉ đọc về cuộc khổ nạn của Đức Kitô một cách dửng dưng, mà ta còn dùng trí tưởng tượng để nhìn sâu hơn, để thấy bên trên con người chịu đóng đinh là chính Thiên Chúa nhập thể, đấng đã yêu cho đến cùng.
Trong đoạn Mở đầu 2, ta thấy tính chất quan trọng của trí tưởng tượng trong lộ trình tâm linh. Bonaventura viết “Tưởng tượng giúp hiểu biết” (trí tưởng tượng giúp trí hiểu). Và như thế Ngài khuyến khích người đọc hãy suy nghĩ về một số cảnh tượng trong Kinh thánh, đi sâu vào các cảnh tượng này bằng trí tưởng tượng và trí óc, để nuôi dưỡng Cây Sự Sống ở trong mình và thưởng thức hoa trái của nó trong kinh nguyện.
Lignum Vitae thách thức người đọc về lời mời gọi hoán cải. Tác phẩm có thể được xếp vào loại “suy niệm” (meditatio) theo văn thể, đó là một loại suy niệm bằng cầu nguyện trên bản văn Kinh thánh, với hi vọng là người đọc khám phá được một sự phong phú lớn hơn trong bản văn (khám phá bản văn phong phú hơn) và để cho sự phong phú ấy thay đổi cuộc sống của mình. Điều đó sẽ đưa người đọc vượt lên trên sự suy niệm để đi đến cầu nguyện và chiêm ngưỡng.
Chưa có Đánh giá/Bình luận nào được đăng.
Hãy trở thành người đầu tiên đóng góp nội dung cho Bài viết này.