Skip to content
Main Banner

QUYỀN TỐI THƯỢNG CỦA ĐỨC KITÔ TRONG BỐI CẢNH THẦN HỌC NGÀY NAY

BTT HOCVIEN OFMVN
2025-10-29 07:22 UTC+7 23
christ-the-king-1761697309.jpg

QUYỀN TỐI THƯỢNG CỦA ĐỨC KITÔ

TRONG BỐI CẢNH THẦN HỌC NGÀY NAY

Seamus Mulholland, OFM

Con người là một phần của thiên nhiên, được liên kết từ nguồn gốc sâu xa nhất với toàn thể thế giới mà họ hiện diện trong đó. Tuy nhiên, về mặt thần học hay triết học, con người không thể bị xem chỉ như một sự vật trong số các sự vật khác; con người không chỉ “hiện diện” trong thế giới cùng với đá và sỏi, cây cối, mèo và chó, máy tính hay tàu vũ trụ. Con người hiện diện trong thế giới như một thụ tạo có bản tính mở và lịch sử: đến từ quá khứ, đang sống trong hiện tại, và hướng tới một tương lai tuyệt đối. Do đó, ta không thể đặt câu hỏi về “con người là gì” theo cùng cách ta hỏi về các thực tại tạo vật khác. Con người là hữu thể duy nhất có thể tự hỏi: “Con người là gì?” Và chính trong việc đặt câu hỏi ấy, con người khám phá ra nơi mình khả năng siêu việt vốn được tỏ lộ ngay trong chính hành vi đặt câu hỏi đó. Khi con người bắt đầu suy tư về kiểu hiện hữu mà mình kinh nghiệm trong thế giới và trong lịch sử, họ nhận ra rằng họ được tự do kêu gọi phải chịu trách nhiệm về chính sự hiện hữu của mình. Ý nghĩa nhân học nền tảng của câu hỏi “Con người là gì?” chính là mầu nhiệm của tính mở và siêu việt mà câu hỏi ấy mạc khải cho con người. Là con người, tức là trở thành một mầu nhiệm trong thế giới.

Dù không thể nói rằng con người có một “bản tính” theo cùng nghĩa với phần còn lại của tạo vật—bởi con người vốn là một hữu thể đang trở thành—tuy nhiên, nơi con người vẫn có một yếu tố thường hằng, cho phép họ có thể thốt lên một cách độc nhất: “Tôi”, “Tôi là”. Ở trung tâm hữu thể của mình, con người khám phá ra một điểm mà tại đó họ nhận ra rằng ở bất cứ thời khắc nào, mình vừa là sản phẩm của chính bản thân và của toàn bộ quá khứ, vừa đang hướng tới một tương lai vượt quá chính mình. Khi tiếp tục hành trình tìm hiểu về chính mình, con người nhận ra nơi điểm cô độc tuyệt đối—nơi họ có thể nói “Tôi”—rằng họ phải tự do trả lời trước ai đó về trách nhiệm của chính sự hiện hữu của mình.

Trong hành trình tìm câu trả lời về bản thân, con người cuối cùng chạm đến giới hạn quyền năng của mình khi đứng trước khả thể của một Lời từ Thiên Chúa về con người. Từ giây phút đó, con người, trung thành với thân phận lịch sử của mình, phải tìm kiếm thời gian và nơi chốn nơi Lời ấy được ban cho con người. Mầu nhiệm Tin Mừng chính là chân lý về hành trình của Thiên Chúa đến với con người. Bản tính con người được tỏ lộ trong ân sủng của tình yêu và chân lý Thiên Chúa, được hiện thân nơi Đức Giêsu Kitô. Thiên Chúa gặp gỡ thân phận con người không phải chỉ bằng thị kiến từ xa hay tiếng nói từ trời, mà từ bên trong lịch sử, trong cấu trúc không–thời gian, trong Ngôi Lời đã làm người. Tin Mừng không chỉ dạy về phẩm giá và giá trị của con người được tạo dựng, mà trước hết loan báo rằng: một con người trong lịch sử chúng ta chính là Thiên Chúa, và toàn thể nhân loại, nhờ hình ảnh Thiên Chúa mà mình mang lấy trong tư cách thụ tạo, được mời gọi, qua Con Người duy nhất ấy, được thần hóa bằng việc thông phần vào tình yêu và chân lý của Thiên Chúa, bây giờ và mãi mãi.

Tín lý về “quyền tối thượng của Đức Kitô”

Đây chính là tín lý về quyền tối thượng của tình yêu và hiệp nhất. Trong tư tưởng Thiên Chúa không hề có “sự nghĩ lại” nào về nhập thể của Ngôi Lời. Tạo dựng chính là hiệp nhất trong tình yêu, và mẫu mực tối cao của thụ tạo chính là Đức Giêsu Kitô, sự hiệp nhất trong tình yêu giữa Thiên Chúa và con người. Đức Giêsu Kitô, được tiền định tuyệt đối để hiệp nhất, chính là “Lời Vâng” vĩnh cửu của Thiên Chúa đối với giá trị và phẩm giá của thụ tạo. Ngài là mạc khải của Thiên Chúa như hiện thực viên mãn nhất của thân phận thụ tạo mà trần gian từng biết. Sự lệ thuộc triệt để vào Thiên Chúa gia tăng tỷ lệ thuận, chứ không tỷ lệ nghịch, với sự tự thống nhất đích thực của con người trước mặt Ngài.

Vì thế, càng đến gần Thiên Chúa, con người càng trở nên nhân bản và thụ tạo đích thực hơn. Đức Kitô là khởi đầu của công trình sáng tạo. Từ muôn thuở, Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta trong Đức Kitô, và trong dung nhan của Ngài, Thiên Chúa đã nhìn thấy khuôn mặt mỗi người chúng ta ngay từ khởi đầu. Và cũng như Ngài đã yêu chúng ta từ đời đời, trong tự do tối thượng, Thiên Chúa ước muốn tình yêu của từng người, trong tính duy nhất và độc đáo của họ, và vì thế làm cho tình yêu ấy khả hữu bằng cách thông chia cho ta chính tình yêu của Ngài qua hiệp nhất với Ngài. Theo mầu nhiệm Tin Mừng, làm người tức là làm thụ tạo yêu mến Thiên Chúa, mở ra trong tự do với Ngài như Đấng Khác Vĩnh Cửu, Đấng chính Ngài tạo nên tự do của ta để ta chọn Ngài vì Ngài là Đấng đáng chúc phúc tự thân. Con người trả lời cho trách nhiệm về sự hiện hữu của mình, do đó, bằng tình yêu, và tình yêu ấy chính là Đức Giêsu Kitô.

Học thuyết của Duns Scotus về tính đơn nhất (univocity) của hữu thể — rằng đối tượng đích thực của mọi tri thức và mọi khát vọng là “Hữu thể như là Hữu thể” (ens qua ens) — cùng với học thuyết của ông về quyền tối thượng của Đức Kitô (the primacy of Christ), đồng thời là một lời khẳng định về sự thiện hảo của vật chất, giá trị của lao động, và ý nghĩa của lịch sử nhân loại cũng như vũ trụ. Chính vì lý do ấy mà học thuyết của Scotus có sức hấp dẫn đặc biệt đối với các nhà Marxist. Nhà triết học Marxist nổi tiếng người Pháp Roger Garaudy đã không ngần ngại nói đến một “nhãn quan Scotist mang tính Phanxicô”, trong đó Đức Kitô được xem như là vương miện của trật tự tự nhiên cũng như siêu nhiên.

Theo Scotus, vật chất, lịch sử và toàn thể công trình sáng tạo không bao giờ có thể bị xem là thứ yếu so với tinh thần, vĩnh cửu hay cõi trời, cũng không chỉ là phông nền cho cuộc sống con người trong khi chuẩn bị cho đời sau. Đời sống trần thế không phải là điều chỉ cần chịu đựng, như thể Thiên Chúa không quan tâm đến việc chúng ta thuộc về thế giới này. Đức Kitô chính là sự hiệp nhất giữa Thiên Chúa và con người, được Thiên Chúa muốn cách tuyệt đối trong tự do vĩnh cửu của Ngài. Mầu nhiệm Nhập Thể là sự kết hợp giữa Nguồn Cội của sáng tạo và điểm tột đỉnh của nó.

Như Thánh Bonaventure nói, con người là tiểu vũ trụ (microcosmos), người tóm lược toàn thể công trình sáng tạo trong chính mình, và qua tự do và trách nhiệm trong lịch sử, con người tự kiến tạo tương lai của mình. Do đó, giá trị nội tại của các thực tại trần thế và nỗ lực nhân sinh đã được bảo đảm từ trước, trong sự tiền định tuyệt đối của Đức Kitô. Nếu Đức Kitô được Thiên Chúa nghĩ đến trước tiên như sự hiệp nhất giữa Đấng Tạo Hóa và tạo vật, thì nhân loại đã có tình liên đới trong Ngài trước cả tình liên đới trong Ađam hay các thủy tổ. Trong trật tự cứu độ thực sự, trạng thái “tự nhiên thuần túy” chưa bao giờ được thực hiện; do đó, tình huynh đệ thiêng liêng đã được ban cho nhân loại trong quyền tối thượng của Đức Kitô, như một yếu tố nội tại của hồng ân tự do, đi đôi với công trình sáng tạo.

Tính huynh đệ hiệp nhất trong Đức Kitô

Dựa trên sự hiệp nhất của chúng ta trong Đức Kitô, mối tương quan cha–con (Ađam và hậu duệ) nhường chỗ cho tương quan anh–em, với Đức Kitô là Trưởng Tử của tạo thành. Chính tương quan này giải thích đồng thời tính thống nhất của nhân loại và tính phổ quát của tội nguyên tổ. Mọi tội lỗi đều mang tính chia rẽ, vì nó là sự quay vào nội tâm, quay lưng lại với Tha Nhân và người khác. Do đó, tội cá nhân sâu xa nhất cũng không bao giờ hoàn toàn cá nhân, mà luôn mang tính cộng đoàn, bởi tội phá vỡ tình yêu, tức sự hiệp nhất — vốn là hướng ra Tha Nhân, trong tự do tự định hướng về Điều Thiện được nhận biết.

Vì vậy, tội lỗi là sự chống đối trực tiếp đối với sự hiệp nhất và liên đới của nhân loại trong Đức Kitô. Hiểu theo nghĩa này, mọi tội lỗi đều mang tính Kitô học. Do đó, bất cứ tội lỗi nguyên khởi nào cũng sẽ có hiệu quả tai hại, phá vỡ các mối tương quan nhân linh và thần linh vốn đã được thiết lập trong tiền định của Đức Kitô. Cách hiểu Kitô học này về tội nguyên tổ vẫn giữ nguyên giá trị, dù trong vũ trụ quan tĩnh tại hay tiến hóa. Với vũ trụ quan tiến hóa, cách trình bày Kitô học của học thuyết tội nguyên tổ mở ra nhiều hướng nghiên cứu thú vị. Mô hình “anh em” như nền tảng của sự hiệp nhất và liên đới của nhân loại trong Đức Kitô đặt vấn đề đơn chủng (monogenism) và đa chủng (polygenism) trong một ánh sáng hoàn toàn mới.

Dù khó nói rằng vấn đề này mất đi tầm quan trọng, mô hình “anh em” cho phép chấp nhận khả thể nguồn gốc đa chủng của loài người mà không đe dọa đến giáo huấn của Giáo hội về tính phổ quát của tội nguyên tổ; và điều này không hề trái với thông điệp Humani Generis. Theo Mt 25,31–46, Tin Mừng dạy một cách minh nhiên rằng cách chúng ta đối xử với anh em mình chính là cách chúng ta đối xử với Đức Kitô, Người Anh Cả. Điều ta làm hay từ chối làm cho tha nhân, ta làm hoặc từ chối làm cho Chính Đức Kitô. Điểm đáng chú ý trong trình thuật Tin Mừng này là sự không biết mình đã phục vụ Đức Kitô không quan trọng; chính hành vi phục vụ mới là điều quyết định. Con người không cần biết rằng khi họ từ khước anh em mình, họ từ khước Đức Kitô.

Nếu ta áp dụng mạc khải Tin Mừng để hiểu tội nguyên tổ trong một thế giới tiến hóa, ta có thể khẳng định cách an toàn rằng tội khởi nguyên không đòi hỏi ý thức rõ ràng về trật tự siêu nhiên hay sự hiệp nhất trong Đức Kitô. Do đó, tội nguyên tổ là sự quay lưng khỏi Thiên Chúa ngay từ khởi đầu nhân loại (không nhất thiết là hành vi đầu tiên của con người), bằng chính hành vi quay lưng khỏi tha nhân, và như thế, du nhập sự chia rẽ vào trật tự ân sủng và tự nhiên. Chính sự chia rẽ này, do lỗi tự do mà có, đã đặt nhân loại vào tình trạng tội lỗi mà trong đó mọi người được sinh ra. Tuy nhiên, chúng ta cũng được sinh ra trong hành động cứu độ của Đức Kitô. Qua sự hiệp nhất và liên đới mà chúng ta có trong Đức Kitô với nhau, mọi tội lỗi đều là sự xúc phạm đến Đức Kitô toàn thể và cá vị.

Khi con người nhìn Trái Đất từ không gian, họ thấy thế giới nhỏ bé và mong manh giữa vũ trụ bao la, chỉ như một hạt bụi nhỏ trong hàng tỷ tinh cầu và thiên hà. Chính vì thế, mầu nhiệm Nhập Thể lại càng quá tuyệt diệu để có thể là sai lầm. Lập luận rằng Thiên Chúa chỉ là sản phẩm của trí tưởng tượng con người trở nên bất khả duy trì, khi ta nhận ra rằng Chính Đấng Tạo Hóa của muôn tỷ thế giới ấy đã đến với hạt bụi nhỏ này. Tri thức của chúng ta về vũ trụ bao la khiến cho khả thể — thậm chí xác suất cao — rằng có sự sống thông minh khác ngoài trái đất trở nên hợp lý. Khả thể này không thể bị người Kitô hữu phớt lờ, bởi Tin Mừng tuyên bố một lời chân lý dứt khoát về công trình sáng tạo, con người và định mệnh của họ trong Đức Kitô. Hơn nữa, con người hôm nay không còn chỉ nghĩ trong phạm vi trái đất, mà ý thức mình thuộc về một vũ trụ nở rộng khôn cùng. Việc giả thiết có những hữu thể thông minh khác, dù vượt trội về tri thức, văn hóa hay tinh thần, không đặt ra vấn nạn nghiêm trọng nào liên quan đến mối tương quan giữa họ và Thiên Chúa Tạo Hóa. Toàn thể tạo vật đều phát xuất từ cùng một Thiên Chúa duy nhất.

Kinh Thánh và Truyền thống khẳng định rằng Đức Kitô là Đầu của toàn thể tạo thành, và Ngài nắm vương quyền phổ quát. Có thể người ta sẽ cho rằng các khẳng định Kinh Thánh trong Côlôsê và Êphêsô, cũng như truyền thống của Giáo hội, chỉ áp dụng cho thế giới hữu hình này. Nếu hiểu như vậy, thì ta chỉ biết được kế hoạch của Thiên Chúa đối với trái đất, chứ không biết gì về phần còn lại của tạo thành. Một mặt, ta xác nhận sự thống nhất của nguồn gốc tạo dựng; mặt khác, ta phải thú nhận sự thiếu hiểu biết về định mệnh toàn thể. Điều đó khiến cho sứ điệp đức tin khó có thể nói điều gì ý nghĩa với con người hiện đại, vốn ý thức rằng mình thuộc về một tiến trình sinh động, hữu cơ và vô hạn. Tuy nhiên, Kinh Thánh — Lời Thiên Chúa giữa loài người — là Sách Thánh của Giáo hội cho muôn thời, nói với tín hữu của thế kỷ XXI như đã nói với các tín hữu của thế kỷ I, và vẫn sẽ loan báo sứ điệp sự sống đời đời cho mọi thế hệ.

Ngày nay, chúng ta đọc Kinh Thánh như những con người hiện đại, ý thức rằng mình thuộc về một vũ trụ vô cùng rộng lớn. Vũ trụ không chỉ là cái gì ở ngoài ta, mà là một yếu tố nội tại của chính sự hiện hữu con người trong thế giới hôm nay. Dù chúng ta có phản đối cách nào, việc hiểu Kinh Thánh của chúng ta vẫn chịu ảnh hưởng — thậm chí bị biến đổi — bởi kiến thức khoa học và kinh nghiệm về thế giới ngày nay. Chúng ta thuộc về một hành tinh nhỏ bé trong vũ trụ khổng lồ, cả về không gian lẫn thời gian, và tất cả đều do một mình Thiên Chúa Tạo Hóa tác thành.

Hôm nay khi ta dùng từ “tạo thành” — như trong khẳng định “Đức Kitô là Đầu của tạo thành” — ta đang nói đến toàn thể vũ trụ theo hiểu biết của chúng ta, cùng mọi khả thể mà vũ trụ ấy có thể bao hàm. Vì không có vấn đề gì đối với chúng ta khi quy toàn thể tạo thành theo nghĩa này về cùng một Thiên Chúa Tạo Hóa, và vì chính Thiên Chúa ấy đã gặp gỡ chúng ta trong phần của tạo thành gọi là trái đất, nên chúng ta bị thôi thúc phải đặt câu hỏi: chính xác ta nghĩ gì khi, cùng với Kinh Thánh và Thánh Truyền, khẳng định rằng Đức Kitô là Đầu của mọi tạo thành?

Để trả lời, ta phải khởi đi từ “quyền tối thượng của Đức Kitô” nơi vũ trụ, chứ không từ tính tất yếu của Cứu Chuộc. Vì thế, tôi không đồng ý với các thần học gia cho rằng thần học duy nhất có thể biết là thần học về Thiên Chúa mạc khải trong tương quan với con cháu Ađam. Họ lý luận rằng nếu có sự sống trên các hành tinh khác, thì chúng phải là đối tượng của một sự quan phòng khác: chúng không là con cháu Ađam và không thuộc lịch sử cứu độ của chúng ta — lịch sử của một nhân loại sa ngã và được cứu chuộc.

Các hữu thể thông minh khác trong vũ trụ?

Tuy nhiên, nếu khởi đi từ quan niệm Scotus về Quyền Tối Thượng của Đức Kitô, thì ta có thể khẳng định: thứ nhất, toàn thể tạo thành, toàn vũ trụ, mọi hiện thực hiện hữu, đều có một sự hiệp nhất về nguồn gốc nơi Đức Kitô. Thứ hai, giả định có các hữu thể thông minh trên những hành tinh khác, ta cũng có thể khẳng định rằng mọi “thần trí nhập thể” (bất kể hình thức vật lý) trong vũ trụ đều liên đới với Đức Kitô, dựa trên tương quan huynh đệ, và tương quan ấy không bị ảnh hưởng bởi khoảng cách không gian hay cách biệt thời gian.

Nhờ sự hiệp nhất trong Đức Kitô, chúng ta trên địa cầu có tình huynh đệ với các hữu thể thông minh ở bất cứ hành tinh nào xa xôi, cũng như với mọi người đã sống trước chúng ta và sẽ đến sau chúng ta. Liên đới trong Đức Kitô có nghĩa là hiệp nhất về nguồn gốc và cùng đích nơi Ngài. Điều này phát xuất từ mạc khải dứt khoát về kế hoạch của Thiên Chúa quy tụ mọi sự trong Đức Kitô. Như thế, ta có thể thừa nhận rằng các hữu thể thông minh ngoài địa cầu có thể là đối tượng của một “quan phòng tương đối” khác (liên quan cách thế Đức Kitô hiện diện ở đó), nhưng tôi không đồng ý rằng họ lại là đối tượng của một “quan phòng tuyệt đối” khác. Kế hoạch của Thiên Chúa cho mọi tạo thành là hiệp nhất với Ngài trong tình yêu nhờ Đức Kitô.

Đức Giêsu Kitô là điều được “định trước” đầu tiên trong tư tưởng Thiên Chúa: sự hiệp nhất giữa vật chất và thần trí với Ngôi Lời, mạc khải các ý định của Thiên Chúa cho chúng ta trong lịch sử và trong thế giới này. Hiện diện trong lịch sử, Đức Giêsu hiện diện trong thời gian như thời gian; hiện diện trong thế giới, Ngài hiện diện trong không gian như không gian. Là khởi đầu và điểm tột đỉnh của trật tự tự nhiên, Ngài ôm lấy trong chính mình mọi vật chất, sự sống, thần trí và lịch sử. Điều được hoàn tất nơi Ngài là một lần thay cho tất cả, và cho toàn thể tạo thành. Vì quyền tối thượng của Ngài còn trải rộng đến các thiên thần, nên xem ra phù hợp khi giả định rằng Thiên Chúa cũng mạc khải kế hoạch sáng tạo của Ngài cho mọi hữu thể thông minh khả hữu khác trong vũ trụ. Điều này không đòi hỏi phải có nhiều cuộc Nhập Thể, nhưng hàm ý một đa dạng trong các cách thế hiện diện của Đức Kitô. Dù giả thuyết nào về tình trạng luân lý của các hữu thể thông minh ấy (có hay không có lỗi phạm), Đức Kitô và kế hoạch của Thiên Chúa vẫn có thể được tỏ bày cho họ một cách tường minh và công khai qua tính bí tích của tạo thành.

Không nghi ngờ gì, Scotus là một trong những tư tưởng gia vĩ đại của Hội Thánh, thậm chí của lịch sử tư tưởng. Đáng tiếc thay, đã có một sự xuyên tạc buồn bã và ít bị thách thức về ông. Trong thần học và triết học Công giáo, có ít nhà thần học nào bị lãng quên và đối xử bất công như Scotus. Trong nhiều tác phẩm lịch sử thần học và triết học, tên ông hầu như không xuất hiện; khi có, thì thường chỉ như một chú thích miễn cưỡng. Trong các sổ tay thần học truyền thống, ông chỉ là đối thủ của Thomas, hoặc được nêu ra như người phát biểu một lập trường mà tác giả không thấy giá trị đặc biệt.

Vì sao lại vậy, và làm sao để thay đổi hầu làm nổi bật tầm quan trọng của Scotus cho thế giới hôm nay, để ông được kính trọng và ngưỡng mộ như ông đáng được? Có vài lý do. Thứ nhất, ông qua đời sớm, trước khi có thể hiệu đính các tác phẩm của mình; ông bắt đầu giai đoạn hiệu đính khi ở Paris, nhưng hoàn cảnh khiến ông phải bỏ dở. Sự thiếu hệ thống hóa trong trước tác đặt ra nhiều gai góc cho người kế thừa và cho việc tổ chức học thuật; vì thế nhiều học giả đã ngại Scotus vì khó khăn khi đối diện với tư tưởng ông. Hơn nữa, nhiều tác phẩm bị gán nhầm cho ông — điều nay ta biết chắc là không phải. Với những ai nông cạn và ưa lối tắt, đó lại là “bằng chứng” cho các cáo buộc chống ông. Thế là người ta có thể đổ lên đầu Scotus bất cứ điều gì, khi không có văn bản chuẩn để thẩm định. Tình trạng này nay đang thay đổi nhờ Ủy ban Scotus đang ấn hành các bản phê bình học thuật. Nhiều người đã chép lại sai lầm, tiếp tục trình bày lệch lạc về hệ hình giáo thuyết của ông — những thứ kỳ thực có ít nền tảng trong tác phẩm Scotus. Dĩ nhiên, tác phẩm ông chứa học vấn thâm sâu và phân biệt sắc bén; cách tiếp cận đôi khi trừu tượng, và ông áp dụng một tính khách quan nghiêm ngặt, vốn không thuận cho văn phong dễ hiểu. Học Scotus cần nhẫn nại và bền bỉ. Và đáng buồn là ông từng bị kết án như tiền hô của Cải Cách và dấu hiệu suy đồi của kinh viện.

Nhiều thái độ nay đã đổi khác, nhờ công trình bền bỉ của các học giả tái khám phá Scotus đích thực và nhờ tiến trình phê bình văn bản. Nhiều điều từng được coi là của Scotus nay bị bác bỏ. Nhờ đó, ta có thể tin chắc rằng ta đang đọc Scotus, không phải một phiên bản nguỵ tạo. Chúng ta đối diện với “một Scotus mới”: không còn là kẻ “bới móc”, chỉ chăm phá đổ công trình tiền bối, mà là một Scotus “rực lửa” tình yêu Thiên Chúa và mạc khải của Ngài nơi Đức Kitô. Scotus nhấn mạnh rằng nghiên cứu thần học là thực hành, dẫn con người trong đời này tới hiệp nhất với Thiên Chúa. Giáo huấn của ông về Đức Kitô như tỏ lộ Tình Yêu Thiên Chúa, trung tâm của vũ trụ, cho thấy tình yêu là chủ âm và đá tảng của toàn bộ nỗ lực thần học—siêu hình của ông. Với Scotus là thế, với anh em Phan sinh hôm nay cũng vậy.

Mục đích của thần học là đưa đến sự yêu mến Ba Ngôi

Đối với anh em Phan sinh, thần học không bao giờ chỉ là khoa học suy lý, cũng không là mô tả các trạng thái tôn giáo chủ quan. Thần học hệ tại mục đích của Ba Ngôi dành cho thụ tạo; vì vậy Scotus bận tâm về tri thức con người cần để đạt tới cùng đích — trở thành những người yêu mến tạo thành của Ba Ngôi. Với anh em Phan sinh, Scotus dạy rằng thần học giải thích cho con người cùng đích siêu nhiên của mình là hiệp thông vào đời sống nội tại của Ba Ngôi — điều mà thánh Phanxicô đã trực giác và sống. Từ đó thấy rõ Scotus đứng vững trong truyền thống Phanxicô. Ông thuộc về dòng tư tưởng linh hứng (nếu không nói là khởi đi) từ Phanxicô Assisi. Tác phẩm ông tràn đầy dấu vết cho thấy ông đọc sâu các bậc thầy Phanxicô: Alexander of Hales, Bonaventure. Scotus làm cụ thể trong giáo thuyết tình yêu và ý muốn của thánh Phanxicô bằng những học thuyết táo bạo cho thời của ông nhưng tiên tri cho thời của chúng ta.

Không cần nhấn mạnh thêm về vai trò không thể thiếu của đối thoại trong đại kết, xây dựng hòa bình (càng cấp thiết hôm nay), công lý và nhân quyền, sinh thái và môi trường, tiền lương công bằng và điều kiện lao động chính đáng. Con người tìm đến nhau để hiểu nhau và đối diện những vấn đề nặng nề của thế giới. Một trong các vấn đề ấy là giá trị của các thực tại thụ tạo, tự thân và trong tương quan với nhân loại. Đây là mối bận tâm của Công đồng Vatican II trong Gaudium et Spes, và là nền cho thông điệp Ecclesiam Suam của Phaolô VI. Hôm nay nhân loại không chỉ thấy giá trị tự thân của thế giới, mà còn nhận ra động lực tương—nội tương quan của mình với thế giới.

Rằng thế giới có giá trị và chân lý tự thân được chứng thực nơi sự kiện “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi ban Con Một”. Quyền tối thượng của Đức Kitô nơi Scotus làm nổi bật tính hiệp nhất năng động giữa con người và thế giới họ sống—vận động. Vũ trụ được làm nên cho Đức Kitô; Ngài là thụ tạo cao cả nhất. Từ đời đời, Ngài là bản mẫu cho mọi sự trên trái đất và các thế giới khác. Mọi sự quy chiếu về Ngài và cùng đích nơi Ngài. Toàn thể tạo thành được tìm thấy nơi Giêsu Nadarét: động vật, thực vật, khoáng vật, đến tận một gene trong xoắn kép DNA. Ngài thấu nhập tận cùng các tầng sâu của hữu thể vũ trụ và đưa nó tới viên mãn, như nó tiến về Điểm Omega: điểm bất khả hoàn, điểm Kitô-hóa trọn vẹn, nơi mọi sinh linh nhận ra sự thật riêng của mình trong tương quan với Thiên Chúa, và chiêm ngắm nơi Thiên Chúa, nhờ Đức Kitô, trong Thánh Thần, khởi đầu—trung cuộc—cùng đích của mình.

Học thuyết Quyền Tối Thượng của Đức Kitô thách đố chúng ta đưa tạo thành tới viên mãn: vì Đức Kitô là khởi đầu và cùng đích, để Thiên Chúa là mọi sự trong mọi sự. Có lẽ không quá đà khi gợi ý rằng, với quyền tối thượng của Đức Kitô trong vũ trụ, toàn thể tạo thành là Thân Thể của Đức Kitô, trong đó Giáo Hội là biểu hiện huyền nhiệm nhất. Bởi vậy, dấn thân cho công lý và hòa bình, môi trường, tiền lương—điều kiện lao động công bằng, phẩm giá—quyền con người không chỉ là vấn đề Kitô giáo hay Phanxicô; căn bản đó là vấn đề nhân bản, vì Ngôi Lời Nhập Thể giữ quyền tối thượng trên tất cả. Đưa thế giới tới tình trạng Kitô-hóa, vì thế, là khai mở Nước Thiên Chúa, được tỏ hiện trọn hảo nơi Đức Giêsu. Do đó, Kitô—nhân học của Scotus không chỉ là suy tư thần học, mà là lời kêu gọi triệt để với nam nữ khắp thế giới trở nên nơi chốn của quyền tối thượng ấy. Đây là phần cốt yếu của đặc sủng Phanxicô — vì quyền tối thượng còn nói về tình huynh đệ phổ quát với mọi sinh linh.

Các học thuyết của Scotus về Hữu thể, tính duy nhất của hữu thể (univocitas entis), Ba Ngôi, mầu nhiệm Thiên Chúa, “tính đây—này” (haecceitas) và Quyền Tối Thượng của Đức Kitô làm nền cho một chủ nghĩa nhân bản Kitô giáo toàn vẹn và đích thực.

Hiện nay, con người rất bận tâm về chính mình và thế giới, và thần học cũng dành nhiều công sức cho ý nghĩa hiện hữu con người trong thế giới. Trong bối cảnh ấy, chủ nghĩa nhân bản Kitô giáo cần không chỉ nói về vẻ cao cả của con người, mà còn về khiêm nhường của con người.

Giá trị—phẩm giá—tính độc nhất của hiện hữu con người, cũng như vật chất, lao động, thời gian, lịch sử, đều được khẳng định cách vô điều kiện và nội tại trong Nhập Thể của Ngôi Lời nơi Đức Giêsu Kitô, được tiền định tuyệt đối trong tình yêu Thiên Chúa. Có chủ nghĩa nhân bản nào triệt để hơn lời khẳng định rằng Thiên Chúa vĩnh cửu đã trở nên một phần của lịch sử con người? Mặt khác, cần nhấn mạnh rằng con người hôm nay cần khiêm tốn để nhận ra mình không phải là thứ nhất, mà là thứ hai; không phải tối hậu, mà là tiền—tối hậu. Có Đấng Khác, Alpha và Omega, được tình yêu nhưng không của Thiên Chúa tôn đặt như thế. Trong việc đón nhận tình yêu ấy, ý nghĩa đích thực của làm người được mạc khải.

Vì thế, thần học, siêu hình học và linh đạo của Duns Scotus nói nhiều về thân phận con người không kém về bản tính của Thiên Chúa. Scotus nói với chúng ta: muốn biết Thiên Chúa là ai, hãy nhìn vào Đức Giêsu; muốn biết con người là gì, cũng hãy nhìn vào Đức Giêsu — vì chính Ngài là tổng hòa của mọi thực tại: thiêng liêng và tạo thành. Bởi thế, Scotus còn thời sự và quan trọng cho thế giới hôm nay hơn ta tưởng.

Chia sẻ

Chưa có Đánh giá/Bình luận nào được đăng.

Hãy trở thành người đầu tiên đóng góp nội dung cho Bài viết này.