THIÊN CHÚA BA NGÔI TRONG TRIẾT-THẦN PHAN SINH
CHỦ ĐỀ THIÊN CHÚA BA NGÔI
TRONG TRIẾT-THẦN PHAN SINH
BÀI I: QUAN ĐIỂM CỦA THÁNH PHANXICÔ
Seamus Mulholland, OFM
Đời sống triệt để của Phanxicô luôn làm say mê những ai được ngài gợi hứng. Tuy nhiên, đời sống ấy đến từ một kinh nghiệm đặc biệt về Thiên Chúa. Để tìm hiểu tại sao Phanxicô đã sống cuộc đời như ngài đã sống là hỏi một câu hỏi nền tảng: Phanxicô đã có kinh nghiệm về Thiên Chúa như thế nào?
Chúng ta thường nghe biết người ta đã thử xếp các bút tích của Phanxicô vào loại “Kitô luận” hoặc “Luận về Ba Ngôi”. Những cố gắng đó có lợi nhưng cuối cùng lại vô ích, vì Phanxicô đã không khảo sát về Ba Ngôi hoặc về Đức Kitô nhưng là đã kinh nghiệm về chúng. Vì thế, Phanxicô không bận tâm tới chuyện lý luận thần học về Ba Ngôi, nhưng đúng hơn ngài có kinh nghiệm về Ba Ngôi trong ba “hoạt động” vĩ đại của tấn kịch cứu độ: Tạo dựng, Cứu chuộc và Tái tạo: “Vậy chúng ta đường ước ao, đừng ham muốn, cũng đừng vui thích hay yêu quý điều gì ngoài Đấng Tạo hóa, Cứu chuộc và Cứu độ chúng ta; chỉ mình Người là Thiên Chúa thật, là sự thiện viên mãn, tất cả sự thiện, sự thiện vẹn toàn, sự thiện chân thật và tối thiện” (Lksd 23, 9).”
Đối với Phanxicô, Thiên Chúa Cha là đối tượng của tình yêu của ngài (5, 14) và ngay cả việc cho rằng Phanxicô được nhắc tới như một Đức Kitô khác, thì một cuộc nghiên cứu kỹ lưỡng về các bút tích của Phanxicô cũng chỉ ra cho thấy cá nhân ngài chẳng có mối liên hệ nào về bất cứ điều gì với Chúa Kitô.
Nhưng Chúa Cha lại hằng được chú tâm tới qua các cụm từ như “Chúa Cha của con”, “Chúa Cha thánh thiện của con”. Phanxicô dùng từ Chúa Cha trong một mạch văn rõ ràng có liên hệ tới Ba Ngôi hơn 20 lần trong các bút tích của ngài. Thực vậy, trong khi Chúa Cha đối với Phanxicô tỏ ra rất thân thiết, thì Người vẫn là “Cha trên trời”, là Đấng siêu việt, vinh quang, oai phong, xa thẳm.
Đối với Phanxicô, Cha là Đấng Sáng tạo, Đấng Tối cao, nhưng Đấng Tối cao lại được nhận biết nhờ Người Con và Thánh Thần. Chúa Cha không bao giờ tách biệt khỏi Người Con và Thánh Thần. Trong Bản Luật không sắc dụ có một đoạn nhấn mạnh tới yếu tố này trong tư tưởng của Phanxicô và cung cấp cho chúng ta chìa khóa để hiểu được thần học của ngài: “Lạy Thiên Chúa toàn năng, chí thánh, cao cả, là Chúa Cha thánh thiện và công minh, là Đức Vua Chúa tể trời đất, chúng con xin dâng lời cảm tạ, chỉ vì chính Cha mà thôi, vì do bởi thánh ý Cha và nhờ Thánh Tử duy nhất cùng với Thánh Thần, Cha đã dựng nên muôn vật hữu hình và vô hình, và đã dựng nên chúng con … không đáng kêu cầu Danh Cha, nên chúng con tha thiết nài xin Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng con, là Con yêu dấu của Cha, … cảm tạ Cha về tất cả mọi sự, hợp theo ý của Cha và của Người” (Cf. Lksd 23, 1 … 5).
Rõ ràng đoạn văn này giúp hiểu tư tưởng của Phanxicô, vì ngài biết rằng không thể trực tiếp đến gần Chúa Cha. Con đường duy nhất đến với Chúa Cha là qua Người Con, vì Chúa Cha hoàn toàn siêu việt/ ngài dựa vào Người Con với tư cách là “Con yêu dấu của Cha”.
Điều này chỉ cho thấy rằng hiếm khi Phanxicô đặt mối tình phụ tử của Thiên Chúa trong mối liên hệ trực tiếp với loài người. Thiên Chúa là Cha vì mầu nhiệm trong Ba Ngôi và vì Người Con và mối liên hệ của Chúa Cha với Người Con. Điều này được sáng tỏ bởi hai lời cầu nguyện quan trọng của Phanxicô. Thứ nhứt là lời cầu nguyện trước Thánh giá chuộc tội tại Đamianô, nơi Phanxicô cầu nguyện trước Đấng chịu đóng đinh nghe tiếng nói “Hãy đi tu sửa lại nhà ta như con thấy đó, đang đổ nát”.
Sau đó, Phanxicô nguyện lời kinh: “Lạy Thiên Chúa Tối cao Vinh hiển, xin chiếu sáng cõi lòng tăm tối của con, và ban cho con, lạy Chúa, một đức tin ngay thẳng, một đức cậy vững vàng, một đức mến hoàn hảo, ý thức và sự hiểu biết, để con có thể thi hành huấn lệnh thánh thiện và chân thật của Chúa”.
Qua tiếng được nghe vọng từ Thánh Giá, lời cầu nguyện không hướng về Chúa Kitô nhưng là hướng tới Đấng Tối cao. Lời cầu nguyện thứ hai là lời cầu nguyện sau khi chịu các Dấu đinh: “Lạy Chúa, Ngài thánh thiện, duy một mình Ngài làm nên những kỳ công, Ngài mạnh mẽ, Ngài vĩ đại, Ngài cao cả, Ngài là Vua toàn năng. Lạy Cha chí thánh, Ngài là Vua thống trị trời đất”.
Quyền uy tối thượng của Cha được tỏ lộ qua việc Ngài gởi Người Con, Đấng từ trời cao sang và phú quý ngự xuống và mặc lấy sự mỏng dòn của thân phận loài người. Trong thư thứ hai gởi cho các tín hữu, Phanxicô nói: “Chúa Cha cao cả trên trời đã báo tin Ngôi Lời chí tôn, chí thánh và chí vinh của Chúa Cha, ngự xuống trong lòng Đức Trinh Nữ Maria thánh htiện và hiển vinh, và từ lòng Đức Trinh Nữ, Ngôi Lời đã nhận lấy xác phàm đích thực của loài người yếu hèn chúng ta”.
Chúa Cha, đối với Phanxicô, là Cha của Người Con và hiện diện nơi Người Con trong mầu nhiệm Nhập Thể. Do đó, tất cả mọi sự thuộc về Chúa Cha và được ban cho Người Con, Đấng lãnh nhận và đến lượt mình, Người dâng trả mọi sự về lại cho Chúa Cha.
THÁNH PHANXICÔ VÀ NGƯỜI CON
Qua cách Phanxicô hiểu về Chúa Cha, chúng ta có thể đạt tới sự nhận biết về Chúa Giêsu là ai đối với ngài. Nơi Phanxicô, Chúa Kitô luôn luôn là “Người Con yêu dấu”. Người là “sự khôn ngoan đích thực” của Chúa Cha, là “Ngôi Lời của Chúa Cha”. Người được ban xuống cho chúng ta từ trên cao bởi Chúa Cha là Đấng đến ở với chúng ta như “ánh sáng”.
Những chữ “Thiên Chúa” và “Chúa” thường được tìm thấy trong các bút tích của Phanxicô, nhưng những tên gọi “Giêsu”, Kitô hoặc Giêsu Kitô thì không bao giờ gặp thấy đứng riêng một mình, đúng hơn Phanxicô luôn luôn dùng những từ có ý nghĩa đi kèm theo chúng: Chúa Giêsu, Chúa Giêsu Kitô, Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta của Thiên Chúa.
Những diễn ngữ có tính chất tương quan cá vị chẳng hạn như “Đức Giêsu của con” hoặc “Chúa Giêsu Kitô của con” không xuất hiện trong các bút tích của Phanxicô. Nhưng chữ “Cha” lại thường được gặp thấy với một đại từ chỉ ngôi vị; Chúa Cha được nhắc tới trong tư cách là “Cha chí thánh của con”, “Cha thánh thiện của con”, hoặc “Cha của con”.
Không phải là không có ý nghĩa khi lời kinh ưa thích và được sử dụng rộng rãi nhất của Phanxicô lại là kinh Lạy Cha. Vì Chúa Cha sống trong ánh sáng không thể tiếp cận, nên Phanxicô nhìn thấy cách thức để đến được với Chúa Cha qua Người Con: trong Tin Mừng thánh Gioan 10, 30, Chúa Giêsu nói: “Tôi và Chúa Cha là một”. Chúa Cha, Thiên Chúa Sáng tạo, là Đấng đã tự mạc khải Ngài nơi Người Con.
Tính độc đáo của Phanxicô trong bối cảnh này là riêng biệt của ngài. Chỉ một mình Chúa Kitô là Đấng duy nhất mà trong Người Chúa Cha lấy làm vui thích. Người vâng phục Chúa Cha và mong muốn được tùng phục ý muốn của Cha trong mọi sự. Hình ảnh Chúa Kitô vâng phục xuất hiện thường xuyên hơn hình ảnh Chúa Kitô nghèo khó trong các bút tích của Phanxicô, Người Con làm hài lòng Chúa Cha trong mọi sự và mạc khải Chúa Cha cho chúng ta. Xuyên suốt các bút tích của ngài, rõ ràng Phanxicô đã cho thấy rằng Đức Kitô làm hài lòng Chúa Cha không chỉ bằng lời nói, nhưng cũng còn bằng đời sống gương mẫu của Người, đời sống chỉ ra cho chúng ta biết con đường đến với Chúa Cha.
Theo Phanxicô, đây là lý do tại sao chúng ta phải bám víu vào Chúa Giêsu, vì Người chỉ cho chúng ta thấy Chúa Cha. Đức Kitô là “Con của Đấng Tối cao” (Thư gửi toàn Dòng 4). Chúa Cha không cần tình yêu của bất cứ ai hơn là tình yêu của Người Con của Ngài, Ngài cũng không cần sự phụng thờ của bất cứ con người tội lỗi nào. Đó là lý do tại sao Phanxicô không dâng một lời cầu nguyện tạ ơn nào trực tiếp lên Chúa Cha, nhưng thay vào đó ngài hướng về Chúa Kitô như người đại diện cho nhân loại, vì chỉ một mình Người Con mới có thể tạ ơn Chúa Cha một cách xứng hợp, Chúa Cha đón nhận những lời tạ ơn chúng ta dâng lên Ngài trong và qua Người Con.
NGÔI LỜI CỦA CHÚA CHA
Diễn ngữ “Ngôi Lời của Chúa Cha” thường được gặp thấy trong các bút tích của Phanxicô khi nói về Chúa Kitô. Trong thư thứ hai gởi cho các tín hữu, Phanxicô nói rằng: giờ đây ngài đang đặt trước mặt họ “bức thư” và “sứ điệp” của Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta, Đấng là “Ngôi Lời của Chúa Cha và những lời của Thánh Thần, là tinh thần và sự sống”.
Trong lá thư này, rõ ràng Phanxicô không có ý định loan báo những lời của Chúa Kitô đã được các tác giả sách Tin Mừng ghi chép lại: đúng hơn là ngài nói tới chính con người của Người, là Ngôi Lời của Chúa Cha. “Chúa Cha cao cả trên trời đã sai thánh thiên thần Gápbrien đến báo tin: Ngôi Lời chí tôn, chí thánh, chí vinh của Người sẽ ngự đến trong lòng Đức Trinh Nữ Maria thánh thiện và hiển vinh; và từ lòng Đức Trinh Nữ, Ngôi Lời đã nhận lấy xác phàm đích thực của loài người yếu hèn chúng ta”.
Ở đây, sự hiệp nhất khôn tả giữa Chúa Cha và Chúa Con được làm nổi bật, vì rõ ràng Phanxicô đã cho thấy rằng chính Chúa Cha “loan báo” việc Người Con sẽ đến cho Đức Trinh Nữ Maria biết, Thiên thần Gápbrien chỉ là một trung gian. Đây là một yếu tố đánh động trong cái nhìn nội tâm của Phanxicô, phản ánh sự hiểu biết riêng của ngài về Người Con trong tư cách là Ngôi Lời của Chúa Cha, Đấng đã hạ mình ngự xuống trong sự nghèo khó của thân phận nhân loại, để thi hành ý muốn của Chúa Cha.
Cũng trong bản văn của lá thư, Phanxicô nhắc lại những nét đặc trưng quan trọng trong cuộc đời tại thế của Chúa Kitô:
• Việc Người đến trong xác thịt
• Bữa ăn tối cuối cùng với các môn đệ
• Vườn Giét-xi-ma-ni
• Cái chết của Người trên thập giá
• Sự hiện diện trong bí tích Thánh Thể
Đây là một trong một số ít nơi mà Phanxicô quan sát hoặc nói về cuộc đời của Chúa Kitô, tuy nhiên cách diễn tả lại cô đọng, rõ ràng ở đây ngài chen vào diễn ngữ có tính Quy Kitô “Ngôi Lời của Chúa Cha” và diễn ngữ mang một ý nghĩa thần học sâu sa.
Khi làm như thế, Phanxicô đưa ra một sự so sánh giữa Ngôi Lời Thiên Chúa toàn vinh, toàn thánh và chí tôn với Ngôi Lời Nhập Thể, nhận lấy sự yếu hèn của bản tính nhân loại. Phanxicô mời gọi chú ý tới Ngôi Lời của Chúa Cha, là Đấng đã từ bỏ sự cao sang của Thiên Chúa để nhận lấy sự nghèo khó của thân phận loài người.
Do đó, mầu nhiệm Nhập Thể trong thực tế là sự chuyển động đi xuống đã được Ngôi Lời của Chúa Cha thực hiện. Chuyển động đi xuống đã được Chúa Kitô thực hiện đó lại được Phanxicô diễn tả một lần nữa, khi ngài nói với các anh em về Người Con của Chúa Cha đã được ban cho chúng ta trong Đức Kitô, là con người giờ đây đang ngự trong bí tích Thánh Thể. “Này đây hằng ngày Người hạ mình xuống như xưa Người rời ngai vàng mà đến trong lòng Đức Trinh Nữ. hằng ngày Người đến với chúng ta một cách khiêm nhường. hằng ngày Người rời cung lòng Chúa Cha để ngự xuống trên bàn thờ, trong tay linh mục” (HN 1, 16-18).
Ở đây, hai khía cạnh cực kỳ quan trọng đã được làm nổi bật: ngai vàng nơi Người Con ở với Chúa Cha từ đời đời và cung lòng Đức Trinh Nữ nơi Người mặc lấy xác thịt nhân loại; cung lòng Chúa Cha và sau đó là bàn thờ và trong tay linh mục. Do đó, tư tưởng của Phanxicô di chuyển từ cực này sang cực kia, dọc theo con đường của Thiên Chúa đến với nhân loại. Phanxicô nhấn mạnh tới sự kiện Ngôi Lời của Chúa Cha ngự xuống với loài người làm sáng tỏ sự khiêm hạ của Thiên Chúa. Ở đây, những lời lẽ ám chỉ sự khiêm hạ không xuất phát từ cuộc sống tại thế của Chúa Giêsu, nhưng bằng một thứ ngôn từ khác, sự khiêm hạ ở đây là vì tình yêu của Thiên Chúa và là một tình yêu bắt nguồn từ Chúa Cha.
Đây là một sự khiêm hạ, vì Phanxicô nhận ra tình yêu của Chúa Cha qua việc Người Con ngự xuống trong thân phận loài người, nghĩa là mầu nhiệm Nhập Thể. Trong bối cảnh sự khiêm hạ này, không phải là một thứ nhân đức, nhưng là một động tác và qua động tác này, Chúa Cha được ban xuống đầy tràn cho nhân loại trong mầu nhiệm Nhập Thể.
Sự khiêm hạ nơi con người sẽ là một món quà tận hiến của chính người đó dâng lên cho Thiên Chúa, để đáp trả lại động tác khiêm hạ khởi thủy cũng là động tác đầu tiên của tình yêu Thiên Chúa và vì thế Phanxicô khích lệ: “… anh em đừng cầm giữ lại cho bản thân anh em bất cứ điều gì của anh em, để Đấng đã tận hiến mình cho anh em sẽ nhận lấy trọn vẹn con người anh em”.
Do đó, viễn tượng sự khiêm hạ nơi Thiên Chúa và Thiên Chúa như sự khiêm hạ theo cái nhìn của Phanxicô được tỏ hiện trong mầu nhiệm Nhập Thể. Và đây là nguồn cảm hứng Phan sinh đầu tiên cho nền thần học về Nhập Thể của thánh Bonaventura (chúng ta sẽ đề cập ở phần sau). Đối với thánh Bonaventura cũng như đối với thánh Phanxicô, sự khiêm hạ của Thiên Chúa được diễn tả qua việc Ngôi Lời của Chúa Cha ngự xuống, sự Nhập Thể của Người vừa diễn tả ý muốn của Chúa Cha, lại vừa biểu lộ sự khiêm hạ của Ba Ngôi Thiên Chúa. Vì thế, sự khiêm hạ và nghèo khó là chính bản chất của Thiên Chúa.
THÁNH THẦN
Phanxicô ít nói về những gì liên quan tới cuộc sống tại thế của Chúa Kitô, nhưng lại nói nhiều về Chúa Thánh Thần. Đối với Phanxicô, Thánh Thần làm cho chúng ta trở nên “con cái của Cha trên trời, những hôn thê, anh em và những người mẹ của Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta” (thư 2 gởi các tín hữu). Đối với Phanxicô, vấn đề không đơn giản là đi theo Đức Kitô bên ngoài, nhưng trước hết là tinh thần của Đức Kitô phải trở nên sống động và tích cực nơi kẻ muốn đi theo Người. Lý thuyết về tinh thần là trọng tâm trong lời giảng dạy của Phanxicô và trong các hoạt động của người kitô hữu.
Chính trong bối cảnh này mà chúng ta mới có thể hiểu được câu nói “phải có tinh thần của Chúa”, vì câu nói này làm phát sinh một công thức giúp có thể hiểu được đời sống của người Phan sinh, cái cực điểm đạt tới sự hiệp nhất với Chúa Cha và Người Con được thông ban trong Thánh Thần. Ở đây, tinh thần của Chúa là chìa khóa của việc chiêm ngưỡng nơi Phanxicô, tới mức như thể nó là chìa khóa để tiến vào đời sống nội tại của Ba Ngôi Thiên Chúa.
Tinh thần của Chúa dẫn đưa mỗi người đi vào chiều sâu của việc đi theo Chúa Kitô và bắt chước sự hiệp thông với Ba Ngôi. Trong Thánh Thần, chúng ta mới có thể thờ phượng Chúa Cha và dâng lên Ngài lời tạ ơn và lời ca ngợi. Thánh Thần không những chỉ cho phép chúng ta nhìn ngắm và thờ phượng Thiên Chúa, nhưng cũng còn hiệp nhất chúng ta với Ngài. Thánh Thần nối kết các kẻ tin với Chúa Kitô, đến nỗi họ trở nên mẹ, anh em và con cái của Chúa Cha.
Như thế, việc đi theo Chúa Kitô theo đúng nghĩa người môn đệ tự căn bản tuỳ thuộc vào Thánh Thần. Trước hết, chính nhờ việc sở hữu Thánh Thần mà chúng ta mới có thể đạt tới chỗ đi theo vết chân của Người Con và đến với Chúa Cha “ … để nhờ ngọn lửa Thánh Linh thanh luyện, soi sáng và nung nấu tự tâm can, chúng con có thể bước theo vết chân Con yêu dấu Chúa … và chúng con đến được với Chúa Tối Cao” (Thư gởi TD 51-52).
Lộ trình quay về với Chúa Cha diễn ra theo hướng đảo ngược: từ Thánh Thần, qua Người Con, đến với Chúa Cha. Mọi sự bắt đầu với Thánh Thần. Do vậy, việc đi theo Chúa Kitô không có nghĩa là bắt chước một kiểu mẫu bên ngoài, nhưng là một sự chú tâm tới Thánh Thần của Thiên Chúa.
Đi theo Chúa Kitô có nghĩa là sống như Chúa Kitô sống, hoàn toàn lệ thuộc Chúa Cha, không ngừng thờ phượng Chúa Cha, giống như Con yêu dấu và hiệp thông với Người. Khi đưa ra điều này, phải chăng chúng ta đã không vô lý khi hỏi rằng thần học của Phanxicô có tính Quy Kitô như đã được trình bày sao? Câu trả lời là có, nhưng với điều kiện là luôn luôn trong mối quan hệ với Chúa Cha và Thánh Thần. Đường lối của Phanxicô dẫn chúng ta qua Thánh thần, qua Chúa Kitô mà đến với Chúa Cha.
Như thế, trong khi quy về Chúa Kitô, cùng lúc ngài quy về Thiên Chúa Ba Ngôi, vì những ai được Thánh Thần của Chúa sinh ra đều là con cái của Chúa Cha trên trời và là hiền thê, anh em và mẹ của Đức Giêsu Kitô (Thư 1 gởi các tín hữu, 5 – 8). Trong kinh nguyện, Phanxicô chỉ ra 3 điều cần thiết: (a) Hãy để họ đi tìm kiếm điều họ muốn trên hết mọi sự là có được tinh thần của Chúa và tác động thánh của Người, (b) Luôn luôn cầu nguyện cùng Người với lòng thanh trí sạch, (c) Và có được sự khiêm tốn, nhẫn nhục trong bách hại và yếu đau.
Lời mời gọi không ngừng cầu nguyện được bắt gặp 4 lần trong các bút tích của Phanxicô. Ngài liên kết việc không ngừng cầu nguyện với Thánh Thần của Chúa và sự thanh sạch của tâm hồn, để có được tinh thần của Chúa và tác động thánh của Người, để luôn luôn cầu nguyện cùng Người với một tâm hồn thanh sạch. Trong huấn lệnh này, có thể nói rằng Phanxicô liên kết lời cầu nguyện không ngừng với những việc làm lành thánh và một lời cầu nguyện như thế chỉ có thể có được trong một người có Thánh Thần của Chúa.
Ý nghĩa của việc không ngừng cầu nguyện được liên kết một cách chặt chẽ với sự thanh sạch của tâm hồn. Trong Bản luật không sắc dụ, Phanxicô khích lệ và khuyến khích tất cả mọi anh em phục vụ, yêu mến và thờ lạy Chúa là Thiên Chúa với một lòng thanh trí sạch, vì đó là điều Chúa muốn trên hết mọi sự, ngài viết: “Và chúng ta hãy thờ phượng Người với tâm hồn trong sạch, vì chúng ta phải cầu nguyện luôn không được nản chí; vì Chúa Cha tìm kiếm những ai thờ phượng Người như thế. Thiên Chúa là Thần khí và kẻ thờ phượng Người phải thờ phượng trong Thần khí và sự thật”.
Chủ đề này cũng được bắt gặp trong thư thứ hai gởi các tín hữu, trong đó Phanxicô dùng diễn ngữ “thần khí sự thật” để gợi ý rằng: chính Thánh Thần của Chúa là Đấng làm phát sinh trong chúng ta hành vi cầu nguyện với một quả tim thanh sạch.
Trong Bản luật không sắc dụ, Phanxicô nói trái tim là nơi Thánh Thần cư ngụ, nghĩa là năng lực hoặc sức mạnh của Thánh Thần ảnh hưởng trên các hoạt động hoặc sự chuyển động của con người. Trên phương diện này, đó là chỗ tinh thần của Chúa đấu tranh với tinh thần của xác thịt: “Chúng ta phải hết sức giữ mình, đừng để vẻ hào nhoáng của một phần thưởng, một công việc, hay một sự trợ giúp nào làm lòng trí ta lạc xa Chúa, hãy thờ phượng Chúa với lòng thanh trí sạch. Đó là điều Chúa muốn hơn cả”.
Nếu chúng ta quan sát một cách chi tiết hơn những chữ “Tinh thần của Chúa” trong văn mạch chúng được viết ra, thì ý nghĩa của của các chữ này có thể được giải thích một cách tốt hơn như sau: “Tôi khuyến cáo và khẩn xin anh em nhân danh Chúa Giêsu Kitô, hãy tránh mọi hình thức kiêu ngạo, huênh hoang, ganh tị, tham lam, đừng bận tâm và lo lắng việc đời, đừng nói xấu và cằn nhằn. ai không biết chữ thì đừng chăm lo học hành. Nhưng hãy chăm lo điều này là, trên hết mọi sự, ao ước được Thần Linh Chúa hiện diện và tác động nơi mình, cầu nguyện cùng Người luôn luôn với tâm hồn trong sạch, sống khiêm nhường, nhẫn nhục khi bị bách hại và đau ốm”.
Sau những lời cảnh cáo mở đầu tôi khuyến cáo và khẩn xin, bản văn chia ra làm hai phần: phần thứ nhứt có tính chất tiêu cực, được giới thiệu bằng những chữ “hãy tránh” và tiếp theo là ‘đừng chăm lo” chỉ cho thấy những tật xấu và tội lỗi phải tránh xa. Phần thứ hai có tính chất tích cực với lời khyến khích “chúng ta hãy cố” trên hết mọi sự có được “Thần khí của Chúa và tác động thánh của Người”.
Ở đây, hiện có một sự nói bớt đi kiểu chia đôi giữa xác thịt và tinh thần theo thánh Phaolô. Trong thư gởi cho các tín hữu ở Galata, thánh Phaolô cho thấy sự đối kháng giữa các công việc, những việc làm của xác thịt mâu thuẫn với những việc làm của tinh thần, trong Bản luật, Phanxicô cũng làm như thế.
Phanxicô tin rằng con người tự căn bản là tốt lành, vì con người được dựng nên theo hình ảnh của Thiên Chúa. Tuy nhiên, xác thịt thì yếu đuối và vừa là kẻ thù lẫn một kẻ lừa dối. Phanxicô nói một cách tiêu cực về những người bị xác thịt chụp bắt và những kẻ sống theo xác thịt.
Trong thư gởi Galata 5, 19-23, thánh Phaolô nói tới những nết xấu của xác thịt; tương tự trong Bản luật, Phanxicô lên danh sách các nết xấu đó như “kiêu căng, khoe khoang, tham lam, hà tiện và những sự bận bịu việc đời, nói xấu và cằn nhằn”. Ngài cảnh cáo chống lại những tội bên trong của tâm hồn, cũng như những tội của xác thịt, của thân xác và sự yêu bản thân mình.
Để thắng vượt tinh thần xác thịt, Phanxicô khích lệ anh em hãy có Thần Khí của Chúa và tác động thánh của Người. Đấy là điều được nhấn mạnh trong đời sống đền tội. Trong thư thứ nhứt gởi cho các tín hữu, Phanxicô hiểu đời sống đền tội như sự tận hiến của trái tim, của linh hồn, tâm trí và sức lực cho Thiên Chúa, và yêu thương người thân cận như chính mình, và ghét bỏ thân xác cùng với những nết xấu và tội lỗi của nó. Ý nghĩa của đời sống đền tội với việc xác thịt chịu khuất phục tinh thần chỉ cho thấy rằng: đời sống theo tinh thần có tầm quan trọng cao hơn đối với Phanxicô, và ý tưởng đó cũng được xác minh trong cách ngài hiểu về Chúa Kitô.
Phanxicô nối kết việc thờ phượng Thiên Chúa với lòng trong sạch với việc không ngừng cầu nguyện, có thể được thực hiện nơi người nào trong họ có Thánh Thần cư ngụ: “Chúng ta hãy thờ phượng Ngài với một tâm hồn trong sạch, vì chúng ta phải cầu nguyện luôn và không được nản lòng … Thiên Chúa là Thần khí và kẻ thờ phượng Người phải thờ phượng theo Thần khí và sự thật”.
Phanxicô dùng sứ điệp nói về hạt giống được đề cập trong Tin Mừng (Lc 8, 11) để cho thấy rằng: chỉ có tâm hồn trong sạch mới có thứ đất thích hợp để đón nhận Lời của Thiên Chúa là thần khí của sự thật và mang lại thần khí và sự sống (Ga 6, 64).
Chúng ta nhận thấy sự nhấn mạnh tương tự này tới Thánh Thần trong lời khuyến khích việc đọc kinh Thần tụng. Trong Thư gởi toàn Dòng, Phanxicô chỉ ra cách đọc kinh Thần tụng. Các giáo sĩ đọc kinh với lòng sốt sắng trước Thiên Chúa, không tập trung tìm kiếm cung điệu du dương, nhưng là sự “hài hòa của tâm trí”, sao cho lời kinh trên môi miệng hòa hợp với tâm trí và tâm trí hòa hợp với Thiên Chúa:
“Mục đích của chúng ta là giao hòa với Thiên Chúa nhờ lòng thanh trí sạch, chứ không phải ru tai dân chúng với cung giọng êm ái”.
Điều này tương ứng với ý tưởng của Phanxicô: là tâm hồn trong sạch nơi có Thánh Thần của Chúa cư ngụ thì xứng đáng với việc thờ phượng Thiên Chúa: “Chúng ta hãy thờ phượng Thiên Chúa với lòng thanh trí sạch, vì đó là điều Ngài muốn trên hết mọi sự”.
Do đó, tự căn bản, Kinh Thần tụng đáp ứng cùng một chức năng như tinh thần của lời cầu nguyện nội tâm. Những lời kinh được đọc phải là một sự diễn tả ra bên ngoài những gì tràn đầy bên trong tâm trí.
BÀI II: QUAN ĐIỂM CỦA BONAVENTURE VỀ BA NGÔI & ĐỨC KITÔ
Paul Route, ofm
THIÊN CHÚA BA NGÔI
Thánh Bonaventura diễn giải về mầu nhiệm Thiên Chúa hiện diện trong tâm khảm của chúng ta như thế nào? Thiên Chúa luôn được nói đến như là Thiên Chúa Nhat Thể Tam Vị, một Thiên Chúa trong tương quan và được mac khải qua Đức Giêsu Kitô. Chúng ta hãy chú tâm đến lời ngài viết trong Bài Giảng 2:32 “Nếu Ba Ngôi là một bản chất siêu việt ngoài khả năng nhận thức của con người, thì mầu nhiệm Thiên Chúa cũng như thế”.
Chúng ta thử tìm hiểu vấn nạn liên quan đến mầu nhiệm Thiên Chúa như là Đấng “Hiện Hữu” (bản thể). Trong bản văn này, Bonavetura phân biệt giữa Hiện Hữu và các hữu thể mà khác biệt của chúng nằm bên ngoài giới hạn của lý trí. Triết gia Heidegger than phiền về thực tại của mầu nhiệm Hiện Hữu đã bị xem trong lịch sử triết học như là một hữu thể nào đó. Điều này đã đánh mất sự khác biệt giữa mầu nhiệm Hiện hữu và một sự vật, và từ đó đưa đến sự hiểu biết nghèo nàn về Hiện Hữu. Ngôn từ Hiện hữu từ đó trở thành một tập hợp các sự vật. Nhưng đối với Bonaventura, Thiên Chúa không chỉ là một hữu thể, nhưng Ngài là Đấng Hiện Hữu tự tại và nguồn gốc của mọi hiện hữu. Thế giới là sự phát sinh của hữu thể từ Hiện hữu:
Khái niệm Hiện hữu chính thức không xứng hợp để dùng cho bất cứ gì khác ngoại trừ Thiên Chúa, và tất cả mọi sự vật nhận lãnh hiện hữu từ chính Thiên Chúa. (Bài Giảng 5, 31)
Ý tưởng về Thiên Chúa phải là thánh thiêng vì bản tính Thiên Chúa là nguồn tận của mọi hiện hữu, tạo dựng mọi hữu thể bởi vì tất cả mọi hữu thể đều xuất phát từ đó. Trừ phi chấp nhận rằng tổng thể mọi hiện hữu đều phát xuất từ Thiên Chúa, bạn không thể suy tư về Ngài một cách thánh thiêng. (Bài Giảng 9,24)
Vậy tất cả mọi hữu thể phát xuất từ Thiên Chúa là Đấng Hiện Hữu như thế nào?
Ý niệm về Thiên Chúa phải là cao cả nhất trong mọi thứ tự của thiện hảo, vì Người là Đấng hoàn hảo nhất, và từ chính sự thiện hảo này, Thiên Chúa tuôn tràn hay lan tỏa một cách hoàn hảo tự chính Ngài và tình yêu… Sự thiện hảo tự tại của Thiên Chúa chính là lý do tại sao Ngài yêu ở mức độ cao cả nhất và chan chứa với một lòng từ bi sâu sắt nhất (Bài Giảng 9,26).
Và tấm lòng nhân hậu dịu dàng mà Chúa dành cho mọi tạo vật xuất phát từ Ngài được Thánh Bonaventura diễn tả qua hình ảnh của cung lòng người nữ tràn đầy với khả năng sinh nở: |Bên trong sự khôn ngoan vĩnh cửu hàm chứa một nguyên lý sung túc sẵn sàng thụ thai, cưu mang và cho ra đời tất cả mọi sự vật… Nguyên lý này đã được thai nghén từ muôn đời từ bên trong cung lòng của Đấng Khôn Ngoan vĩnh cửu.” (Collations 20,5)
Mầu nhiệm về sự “thiện nội tại” của Thiên Chúa được diễn tả qua thực tại của Thiên Chúa là Đấng Nhất Vị Tam Thể. Thánh Bonaventura rút tỉa tư tưởng này từ các sáng tác của Mạo-Dionysius. Những sáng tác này mang ảnh hưởng triết thuyết Tân-Platô, nhưng lại được lồng qua lăng kính Kitô giáo. Tại tâm điểm của triết thuyết Tân-Platô là khái niệm cho rằng mọi thực tại phát sinh hay lan tỏa từ cái “Một” hay Thượng Đế qua một quá trình các trung gian. Theo tư tưởng Mạo-Dionysius thì cái “Một” trở thành Đấng Tạo Hoá của Sách Sáng Thế, thế nên công trình sáng tạo là một sự “lan tỏa” hay “phát sinh” từ Thiên Chúa. Thiên Chúa có một sự kết hợp mật thiết với tạo thành như là món quà tặng, tuôn trào từ sự thiện hảo của chính Ngài. Thiên Chúa muốn chúng ta được dự phần cách tối đa vào sự thiện hảo này theo khả năng của chúng ta. Ngài ao ước chúng ta được trở nên giống như Ngài. Ngài mong chờ chúng ta trở nên thánh thiêng qua hành trình trở về với cái nguồn cội thánh thiêng mà chính từ đó chúng ta đã xuất phát.
Bonaventure đã áp dụng khái niệm “lan tỏa” này vào thần học. Bonaventure diễn tả tạo thành như một sự lan tỏa (hay sinh xuất) từ chính sự thiện hảo của Thiên Chúa. Luận đề thần học này được hình thành qua suy tư về mầu nhiệm Ba Ngôi. Lan tỏa tiên vàn được nhận thức ngay trong các mối tương quan sự sống của Thiên Chúa Ba Ngôi.
Bonaventure viết trong tác phẩm “Hành Trình”: “Bởi vì sự thiện được biết là tự nó tuôn trào: do đó sự thiện tối cao phải tự tuôn trào cách tột bực.” (6.2)
Nhưng ở đây có vấn đề. Khi nói rằng sự “thiện hảo” của Thiên Chúa tự tuôn trào một cách tột bực” có nghĩa là Chúa phải thể hiện sự thiện thánh thiêng của Ngài cách vô biên. Nói cách khác, sự thiện của Ngài cần phải trở thành một “hiện thể”. Nếu chúng ta nói sự thiện của Chúa trở thành hiện thể qua tạo thành thì điều này sẽ đương nhiên giới hạn tự do của Thiên Chúa qua hai khía cạnh. Thứ nhất, tạo dựng được xem như thể là hoạt động cần thiết (Chúa cần phải tạo dựng vũ trụ để Ngài thể hiện sự thiện thánh thiêng của Ngài) và như thế Thiên Chúa lệ thuộc vào tạo thành. Điều này mâu thuẫn với sự tự do của Thiên Chúa. Thứ nhì, nếu tạo thành là hiện thể hoàn hảo nhất của sự thiện chính là Thiên Chúa, vậy ra thế giới này là thế giới tốt nhất mà Ngài có thể tạo ra được. Điều này cũng sẽ giới hạn cách trầm trọng bản tính toàn năng siêu việt của Thiên Chúa.
Tuy nhiên có cách khác để định vị cách Thiên Chúa thể hiện sự thiện tối cao của Ngài trong vũ trụ tạo thành. Cách này đã được Bonaventure khai triển. Tác giả rút tỉa từ mô thức “Ba Ngôi năng động” của Mạo-Dionysius mà qua đó sự thiện thánh thiêng khởi xướng ngay từ sự sống nội tại của Thiên Chúa, trong các mối tương quan giữa Ba Ngôi.
Vì thế, trừ phi từ muôn đời trong sự thiện tối cao đã có một nguyên lý vĩnh hằng đồng-phát sinh cách vĩnh viễn như thể có cả người yêu và người được yêu… Đó là Cha, Con và Thánh Thần. Trừ phi có trường hợp này, sẽ không có sự thiện tối cao bởi vì nó không tự lan tỏa cách tuyệt đối. Vì lẽ, sự lan tỏa được nhận thấy trong thời gian nơi tạo vật chỉ là một điểm hay trung tâm nhỏ nhoi so với mức độ bao la của sự thiện vĩnh cửu. (Hành Trình 6,2)
Bonaventure đưa nguyên lý lan tỏa của sự thiện thánh thiêng vào để giải thích mầu nhiệm về mối tương quan nội tại của Thiên Chúa Ba Ngôi. Điều này cho phép ngài diễn đạt tính “cho nhưng không” (bất tất) của sự thiện Thiên Chúa được tỏ hiện qua hành động tạo thành.
Sự thiện nội tại của Thiên Chúa, do đó, được biểu lộ trong tương quan của tình yêu Tam Vị Nhất Thể. Tin vào Thiên Chúa tức là tin vào thực tại tình yêu này, một niềm thác tín cho rằng vận mệnh con người đang bị lôi cuốn vào chiều sâu của tình yêu Ba Ngôi này.
MẦU NHIỆM ĐỨC KITÔ: NGÔI LỜI THIÊN CHÚA NHẬP THỂ
Eric Doyle viết về vai trò của Đức Kitô trong linh đạo Phan-sinh: “Nếu phải tìm từ để diễn tả toàn vẹn ý nghĩa của thần học và linh đạo Phan-sinh, đó phải là từ “Christo-centric” (Kitô-trung tâm). Cả hai lãnh vực trên đều mang đặc tính cá biệt này, bởi vì niềm tin và sự thánh thiện của Thánh Phanxicô hoàn toàn chú tâm vào Đức Kitô… Phanxicô phó thác chính mình một cách tuyệt đối cho Đức Kitô, yêu mến Ngài như Ngài đang thật sự hiện diện trong tạo thành, trong Kinh Thánh, trong Thánh Thể, và trong giáo hội. Với niềm tin sâu sắc vào Đức Kitô và tình yêu gắn bó với Ngài, thánh Phanxicô luôn mong muốn được làm những gì Ngài đã làm, nói những gì Ngài đã nói, chịu đau khổ như Ngài đã chịu đau khổ, và trên hết là cuộc khổ nạn và cái chết trên thập giá. Nói cách khác, vị thánh không muốn gì hơn là bước theo dấu chân của Đức Kitô.” (Kitô Học Phansinh, tr. 13).
Thần học của Bonaventure mang tính cách Kitô-trung tâm. Nếu Đức Kitô đóng vai trung tâm của mọi cảm nghiệm trong cuộc sống của Phanxicô, thì Ngài sẽ là tâm điểm thần học trong nền tảng siêu hình của Bonaventure. Suy tư về Kitô học của Bonaventure cho chúng ta một nhãn quan an bình và hoán cải toàn diện một khi quá trình vòng tròn của lịch sử cứu độ được phát họa với Đức Kitô làm trung tâm điểm.
Thần học của Bonaventure khởi đầu với Thiên Chúa, một Thiên Chúa Tam Vị Nhất Thể của mạc khải Kitô giáo. Cội nguồn của cuộc sống Ba Ngôi chính là Chúa Cha, một “suối nguồn tuôn trào” (fontalis plentitudo), một dòng nước chan chứa, một chiều sâu vô tận của sự thiện hảo. Cuộc sống của Chúa Cha chính là tình yêu tuôn trào vô hạn của chính mình, và biểu tượng cho sự kiện này được gặp thấy nơi Ngôi Lời Vĩnh hằng.
Từ muôn thuở Cha sinh ra Con giống như chính Người và tỏ hiện chính Người một sự tương tự như chính Người, và như thế Người tỏ hiện tất cả quyền năng của Người; Người tỏ hiện điều Người có thể thực hiện, và trên hết, điều Người muốn thực hiện, và Người tỏ hiện tất cả mọi sự qua Con, nghĩa là, nơi Con hay Tâm Điểm này, Nghệ Thuật của Ngài được tỏ hiện. Do đó, Tâm Điểm này chính là Chân Lý (Bài Giảng 1, 13).
Ngôi Lời diễn đạt tất cả gì Chúa Cha là và những gì Ngài thực hiện, và như thế trở nên mô mẫu cho tất cả những gì Chúa Cha tạo nên. Như Ngôi Lời được phán ra từ cõi thâm sâu của Thiên Chúa Tối Cao thì Ngôi Lời cũng là trung tâm điểm của Ba Ngôi. Như Ngôi Lời được phán ra qua hành động tạo dựng vũ trụ, thì tạo thành cũng phản ánh nguồn gốc của nó từ Thiên Chúa Tối Cao. Do đó, Ngôi Lời chính là trung tâm điểm cho tất cả mọi sự hiện hữu.
Mầu nhiệm Đức Kitô là mầu nhiệm của cá vị ngôi hai đang cư ngụ trong trung tâm của Thiên Chúa Tối Cao. Bonaventure đặt ngôi hai tại trung tâm điểm của sự sống của Ba Ngôi, vừa đón nhận tình yêu của Chúa Cha vừa trao trả tình yêu cho Chúa Cha, như thế phát ra cùng với Chúa Cha một tình yêu gắn bó cả hai chính là Chúa Thánh Linh. Ngôi vị tại trung tâm điểm của Ba Ngôi là ngôi vị làm trung gian cho tất cả hoạt động của Thiên Chúa qua công cuộc tạo thành và qua lịch sử.
Qua mầu nhiệm Nhập Thể, Ngôi Lời mặc lấy thân xác con người và sống trong lịch sử nơi cá nhân Giêsu, Đức Kitô. Đức Kitô là sự tỏ hiện hoàn toàn nhất của một Mầu Nhiệm vĩnh hằng như là nền tảng cho mọi hiện hữu trong khuôn khổ thời gian. Mầu nhiệm đó chính là mối tương quan giữa Ba Ngôi trong Thiên Chúa. Đây là lý do tại sao Bonaventure khẳng định rằng Đức Kitô chính là chìa khóa chung quyết để giải mã ý nghĩa và mục tiêu của vũ trụ. Như Ngôi Lời Vĩnh Hằng liên tục đáp trả tình yêu cho Chúa Cha là nguồn cội, thì ý nghĩa của lịch sử sẽ được tìm thấy qua sự quay trở lại của mọi tạo vật để cùng về với Thiên Chúa mà từ đó chúng đã khởi nguồn. Như Bonaventure đã xác định thường xuyên qua tác phẩm “Collations” và các sáng tác khác, ý nghĩa tối hậu của cuộc sống sẽ không được tìm thấy nơi lý trí con người nhưng chỉ được khám phá nơi Đức Kitô. Vị thánh phản biện lại “ …những kẻ bỏ cả đời nghiên cứu luận lý, vật lý và các nguyên lý khoa học mà chẳng tìm ra điều gì khôn ngoan trong các loại tri thức này. Nếu họ nghiên cứu gỗ của Thập Giá của Đức Kitô, may ra họ sẽ tìm được tri thức thật sự đem đến ơn cứu rỗi.” (Bài giảng Chủ Nhật Thứ II sau Phục Sinh). Bonaventure không chỉ trích việc nghiên cứu luận lý, vật lý hay khoa học chính nó, nhưng là ở sự kiện kẻ nghiêu cứu không tìm thấy “hương vị khôn ngoan” trong tri thức mà họ đã đạt được.
Mô biểu mà Bonaventure thường dùng đó là một vòng tròn mà trong đó mọi sự lan tỏa từ Thiên Chúa đã được tiên định để cuối cùng trở về với Thiên Chúa. Nếu nhân loại muốn đạt tiêu đích của mình cách trọn vẹn, thì vòng tròn này tiên quyết phải được hoàn tất. Nhưng nếu muốn đi theo vòng tròn này cho đến tột đích, điều cần thiết là phải định vị trung tâm điểm của nó. Trong tập “Giảng Thuyết Sáu Ngày” gồm các bài thuyết giảng của Bonaventure vào năm 1273, vị thánh khai triển cách hùng hồn nhãn quan Đức Kitô là trung tâm của tất cả mọi tạo vật. Nơi Đức Kitô có một sự kết hợp giữa các thái cực trái ngược nhau và sự hài hoà giữa con người với Thiên Chúa. Nhân loại được mời gọi trở thành hiện thể cho hình ảnh mà mình đang cưu mang, tức là trở nên giống như Thiên Chúa. Đức Kitô là Đấng tỏ lộ cho chúng ta thấy quá trình trở nên giống như Thiên Chúa là thế nào, vì Ngài chính là hiện thân củaThiên Chúa trong thời gian.
Bonaventure cùng chia sẻ với Thánh Phanxicô mối quan tâm về nhân tính của Đức Giêsu. Nhân tính của Đức Giêsu là chìa khóa giải mã cho chúng ta ý nghĩa của toàn thể thực tại. Bonaventure chú tâm đến hình ảnh chân thực của lối sống mà Đức Giêsu đã chọn trong lịch sử. Hướng theo nguồn cảm hứng của Phanxicô, Bonaventure nhấn mạnh về ý nghĩa cuộc sống khổ hạnh và khiêm hạ của Đức Giêsu và đặt biệt là mầu nhiệm Thập giá.
Cũng như Con Thiên Chúa, một con người nhỏ bé, nghèo hèn và khiêm hạ, mặc lấy thân phân bụi đất như chúng ta và sinh ra với một thân xác bụi đất, không chỉ xuất hiện trên mặt đất mà thật sự đến tận đáy sâu của trái đất, có nghĩa là, Người đã mang ơn cứu rỗi đến giữa lòng trái đất, vì sau khi bị đóng đinh, linh hồn của Người đã xuống tận địa ngục và đã tái lập ngai vị của Thiên Đàng. Một Trung Tâm Điểm như thế có quyền năng cứu rỗi: và bất cứ ai cố tránh né Ngài sẽ bị xét đoán, vì đó cũng như đang cố tránh né con đường của khiêm hạ. Và chính Đấng Cứu Thế làm chứng cho điều này: “Ta đang ở giữa anh em như một người phục vụ” (Lk 22:27). Trong Trung Tâm Điểm này, Người đã mang lại ơn cứu độ, đó chính là sự khiêm hạ của Thập Giá (Bài Giảng Sáu Ngày 1,23)
Sự kiện Bonaventure dùng các ví dụ trên đây để nói lên nhân tính của Đức Kitô được đặc cơ sở của niềm xác tín rằng— Đức Giêsu tỏ hiện căn tính của quá trình trở nên giống như Thiên Chúa. Cũng như cội nguồn của Thiên Chúa là “fontalis plentitudo” (suối nguồn tuôn trào) - tức là sự tự tuôn trào của tình yêu và thiện hảo, do đó ai ao ước trở nên giống như Thiên Chúa cần phải dấn thân tích cực vào lối sống với tình yêu tự hủy. Đây chính là ý nghĩa của “kenosis”, một tình yêu tự phát, trút sạch trọn vẹn của Chúa Cha được biểu lộ trong lịch sử qua sự tự hủy (kenosis) của Chúa Con. Nhưng nhân loại, vì tự kiêu đã bị mù lòa không nhận ra cách trở nên giống như Thiên Chúa. Kiêu ngạo là sự chuyển hướng vào bên trong, chỉ quan tâm đến cái tôi và tầm quan trọng của bản ngã, thay vì hướng về khách thể bên ngoài đại diện cho cuộc sống tình yêu, tiêu biểu như trong tình yêu của Thiên Chúa Ba Ngôi. Kiêu ngạo làm gián đoạn hành trình lần mòn đi theo vòng tròn, và vì ngăn trở bởi sự mù quáng của tự kiêu, nhân loại không thể định vị được Tung Tâm Điểm của vòng tròn này hầu hoàn tất hành trình trở về cùng Thiên Chúa.
Chính đây là nơi mà mầu nhiệm tình yêu Ba Ngôi đóng vai khởi động. Thiên Chúa mở rộng vòng tay và qua yêu thương ban cho nhân loại đang đắm chìm trong tội lỗi một Trung Tâm. Đây là ý nghĩa của Nhập Thể, ý nghĩa về cuộc đời của Đức Kitô, biểu thị một cách đặc biệt qua tình yêu tự cho đi trên Thập Giá. Khôn ngoan của Thiên Chúa tuyệt diệu dường bao, vì nó đã đem lại ơn cứu rỗi từ đống tro tàn của sự khiêm hạ. Vì khi trung tâm điểm của vòng tròn bị đánh mất, nó không thể tìm lại được ngoại trừ với hai đường thẳng cắt nhau bằng góc vuông” (Bài Giảng Sáu Ngày 1,24).
Qua cách noi gương tình yêu tự phát biểu lộ qua Đức Giêsu, chúng ta tìm tại được trung tâm và như thế có thể hoàn tất vòng tròn hành trình trở về cùng Thiên Chúa. Động lực của Nhập Thể là ý Thiên Chúa muốn cho chúng ta nhận thấy sự mãn nguyện chung kết của kiếp người, đó chính là sự vinh thăng của tạo thành do Thiên Chúa. Qua Nhập Thể chúng ta có thể nhận ra sự hoàn tất của taọ thành. Nhưng Nhập Thể không chỉ mạc khải về sự hoàn tất của tạo thành mà còn tỏ lộ phương cách vược qua các trở ngại trên con đường đưa đến hoàn tất, một cuộc hành trình vượt qua sự tha hoá cơ bản giữa tạo thành với Đấng Tạo Thành, gây nên bởi hậu quả của tội kiêu ngạo.
Mầu nhiệm Nhập thể do đó là một cuộc nhập thể trong khiêm hạ và khó nghèo. Một cuộc nhập thể trong khiêm hạ qua đó Đức Kitô là Đấng sống trong sự lệ thuộc hoàn toàn và vâng phục hoàn toàn với Chúa Cha. Một cuộc nhập thể qua đó Đức Kitô là Đấng không đòi hỏi gì cho riêng mình nhưng nhận thức ra rằng tất cả mọi sự, kể cả sự tồn tại của chính Người, đều được ban cho như một quà tặng từ lòng yêu mến tác tạo của Chúa Cha. Sự nhận thức này cho chúng ta thấy sự sống với lòng nhân hậu bao la, với tình yêu tự xuất phát vô bờ bến, đó chính là bản tính của Thiên Chúa Tối Cao, một tình yêu đã tìm thấy biểu hiện cách toàn vẹn qua Thập Giá trên đồi Calvary.
Nhập thể do đó có mang một giá trị cứu độ, có liên quan đến nỗ lực vượt qua các trở ngại trên hành trình hướng về mãn nguyện chân thật của kiếp người. Sự mãn nguyện này được trọn vẹn chỉ khi chúng ta được đưa đến ý định của Thiên Chúa cho chúng ta. Và Bonaventure cho chúng ta thấy chính Đức Kitô là Đấng sẽ điều hướng chúng ta phương cách để hoàn tất cuộc hành trình về với Thiên Chúa. Bonaventure mời gọi chúng ta hãy đặt mình vào tư thế sẳn sàng đón nhận tình yêu ôm ấp của Thiên Chúa và cùng với Đức Kitô tiến vào trong Thiên Chúa. Thánh Phanxicô trên núi La Verna chính là mô mẫu cho hành trình tiến vào Thiên Chúa khi ngài ngây ngất tâm thần chiêm ngưỡng dung nhan của Đấng chịu đóng đinh trên Thập Giá. Bonaventure viết:
Bất cứ ai hoàn toàn quay mặt về Nắp Xá Tội này với niềm tin, cậy trông, yêu mến, sùng kính, ngợi khen, vui sướng, tán thưởng, ca ngợi, và hoan hỉ, sẽ nhìn ngắm Chúa Kitô treo trên Thập giá. Con người đó cử hành lễ Vượt qua, đó là cuộc Khổ nạn, với Chúa Kitô. (Hành Trình, 7.2). Hãy để ý đến sự tương đồng giữa Bonaventure và Clare về phương cách toàn thể con người (linh hồn và thân xác) cùng “chiêm ngắm” Đức Kitô chịu đóng đinh.
Qua bài suy gẫm về thị kiến của Thánh Phanxicô tại La Verna, Bonaventure đã diễn đạt được cho chúng ta một nhãn quan “Kitô-trung tâm” (Christocentric) rất hùng hồn về toàn thể tạo thành. Ngài đã khai triển thị kiến đó thành một loại linh đạo “imitatio Christi” (noi gương Đức Kitô). Ở đây, Bonaventure mở cho chúng ta một viễn tượng linh đạo của Thánh Phanxicô; trong đó, ý nghĩa của cuộc sống của Đức Giêsu nơi trần thế trở nên tỏ tường và minh bạch hơn. Những lời rao giảng và bài học luân lý của Đức Giêsu mang một ý nghĩa “qui phạm” hay “chuẩn tắc” trong nỗ lực thiêng liêng tìm kiếm hiện hữu chân thực cho con người. Linh đạo, trên hết, có nghĩa là hành trình của tâm linh lên tới Thiên Chúa. Và hành trình đó được thực hiện qua cách chúng ta thích ứng lối sống của riêng mình với mầu nhiệm Ngôi Lời Vĩnh hằng đã nhập thể trong lịch sử qua con người Giêsu.
Điều đáng ngạc nhiên là Thiên Chúa đang hiện diện gần gũi với tâm linh chúng ta, nhưng lại rất ít người có thể ý thức được Nguyên Lý Đệ Nhất đang hiện diện trong họ. Tuy nhiên lý do cho sự mù quáng này thì rất rõ: tâm linh con người, bị chi phối bởi nhiều âu lo, không tiến vào bên trong chính nó qua trí nhớ; mù mờ bởi cách ấn tượng của giác quan, tâm linh không nhìn lại chính mình qua lý trí; bị lôi cuốn bởi yếu đuối, tâm linh không còn khao khát niềm hoan lạc và ngọt ngào thánh thiêng đến từ bên trong. Như thế, bị đắm chìm giữa những thực tại khả giác, tâm linh không thể quay trở về với chính nó là hình ảnh của Thiên Chúa.
Giống như khi bị ngã, người đó vẫn nằm đó cho đến khi có một người khác đến gần, cúi xuống và nâng người ấy lên. Cũng vậy, linh hồn của chúng ta không thể tự chỗi dậy cách hoàn hảo từ những thực tại khả giác để nhận ra mình và chân lý vĩnh cửu trong mình trừ khi chân lý, giả định là hình dáng con người nơi Đức Kitô, trở nên cái thang để sửa chữa cái thang ban đầu đã bị gãy đổ nơi Ađam. Cũng bởi vì đó, bất luận được soi sáng với ánh sáng hiểu biết tự nhiên hay được ban tặng, không ai có thể đi vào trong chính mình để vui sướng trong Chúa (Tv 36,4) ngoại trừ sự trợ giúp của vai trò trung gian nơi Đức Kitô, Đấng nói: Tôi là cửa, ai đi vào qua tôi sẽ được cứu; họ sẽ đi vào và ra và tìm thấy đồng cỏ (Ga 10,9). Nhưng không thể đến gần cánh cửa này trừ khi chúng ta tin vào Chúa Kitô, hy vọng vào Chúa Kitô và yêu mến Chúa Kitô. Bởi đó, nếu chúng ta ao ước để đi vào trong sự vui sướng của chân lý như đi vào trong thiên đường, chúng ta phải làm điều đó trong niềm tin, niềm hy vọng và tình mến cho đấng trung gian giữa Thiên Chúa và loài người, Đức Giêsu Kitô, Đấng như cây sự sống giữa vườn địa đàng. (Hành Trình 4.1,2).
Chưa có Đánh giá/Bình luận nào được đăng.
Hãy trở thành người đầu tiên đóng góp nội dung cho Bài viết này.