Giai đoạn phát triển đầu tiên
LƯỢC SỬ GIÁO HỘI CÔNG GIÁO
Joseph Tân Nguyễn, ofm biên soạn
I. SỰ THÀNH HÌNH CỦA GIÁO HỘI SƠ KHAI
II. GIAI ĐOẠN PHÁT TRIỂN ĐẦU TIÊN
III. TRANH CHẤP GIỮA GIÁO QUYỀN & THẾ QUYỀN
IV. ĐỈNH CAO CỦA GIÁO HỘI TRUNG CỔ
V. GIÁO HỘI CHIA RẼ VÀ CẢI CÁCH
VI. GIÁO HỘI TRƯỚC CÁC THỬ THÁCH MỚI
VII. GIÁO HỘI HƯỚNG VỀ THẾ GIỚI
II. GIAI ĐOẠN PHÁT TRIỂN ĐẦU TIÊN
Phát triển tín lý và cơ chế trong Giáo hội
Thế kỷ IV–V chứng kiến sự hình thành các thiết chế Kitô giáo—có lẽ quan trọng nhất là chức giám mục Rôma, tức giáo hoàng. Khi Giáo Hội đã công khai và được đế quốc nâng đỡ, chức vụ giáo hoàng và các tín điều căn bản dần định hình. Đây cũng là thời có những tranh luận lớn về con người Đức Kitô, về Ba Ngôi, và về tương quan giữa nhân tính và thần tính của Đức Kitô. Các tranh luận ấy được giải quyết tại bốn công đồng đại kết từ 325 đến 451. Ảnh hưởng của chúng rất lớn: đại đa số Kitô hữu hôm nay, kể cả toàn thể Công giáo và Chính Thống giáo, cùng phần lớn Tin Lành, đều chấp nhận giáo huấn của các công đồng ấy.
Người Công giáo truy nguyên chức giáo hoàn g về thánh Phêrô, dù hầu như không thể chứng minh một dòng kế vị trực tiếp. Phêrô chịu tử đạo dưới thời Nêrô, không phải là người sáng lập cộng đoàn Kitô giáo ở Rôma. Ngay từ thế kỷ II, giám mục Rôma—sau này gọi là giáo hoàng—được một số người xem là “đứng đầu giữa các vị đồng hàng” (primus inter pares). Thế kỷ IV, giáo hoàng mang vài nghi thức đế vương Rôma. Trong lá thư gửi Công đồng Calcêđônia (451), Đức Leo Cả tuyên bố: “Phêrô nói qua miệng Leo”—một khẳng định rõ rằng giáo hoàng đã xem mình là đấng kế vị Phêrô. Tuy nhiên, vào thời điểm đó, yêu sách này mang tính tài phán hơn là tín lý. Cuối thế kỷ V, Đức Gelasiô I phân biệt “thẩm quyền thiêng liêng” của giáo hoàng và “quyền bính” của hoàng đế—về sau được dùng để biện minh cho vai trò lãnh đạo thế giới Kitô giáo của giáo hoàng.
Một trong những vấn đề nội bộ đầu tiên thu hút sự quan tâm của Constantinus là thuyết Đônatô. Vấn nạn: các giám mục chối đạo trong cơn bách hại có thể tiếp tục thừa tác vụ không? Một công nghị Bắc Phi tuyên bố: hiệu lực của chức vụ không tùy thuộc sự thánh thiện cá nhân của thừa tác viên—như thế tuyên bố lập trường Đônatô là lạc giáo. Đây là một giáo huấn cực kỳ quan trọng cho một Giáo Hội sẽ phát triển thành một định chế tôn giáo phổ quát ở hầu hết châu Âu và có không ít người thi hành chức vụ bất xứng. Nó cũng chạm đến vấn đề rộng hơn: Giáo Hội lữ hành gồm “các thánh” hay là một tập hợp pha trộn người xứng đáng và bất xứng.
Ở Đế quốc Đông Rôma, nảy sinh nhiều câu hỏi về bản tính và ngôi vị của Đức Kitô và Thiên Chúa. Chúng được giải quyết tại bốn công đồng đại kết giữa 325 và 451. Công đồng Nixêa đối diện giáo thuyết của Ariô—một người độc thần chặt chẽ—cho rằng Đức Giêsu đứng đầu trật tự thụ tạo nên không “đồng vĩnh cửu” với Thiên Chúa. Công đồng ban một Tín biểu—nền của Kinh Tin Kính Nixêa—bác bỏ Ariô. Dù hầu hết giám mục tại Nixêa ký Tín biểu, một số về sau lại trở về lập trường Ariô và mang nó tới các bộ tộc German.
Công đồng Constantinopolis tái khẳng định công thức Nixêa và nhấn mạnh Chúa Thánh Thần thật là Thiên Chúa—xác quyết dứt khoát về Ba Ngôi. Công đồng Êphêsô kết án giáo thuyết của Nestorius—người từ chối tôn kính Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa, hàm ý Đức Kitô bị “phân đôi” giữa nhân tính và thần tính.
Rốt cuộc, những người bác bỏ giáo huấn công đồng dời sang phía Đông—trước là Ba Tư, sau là Trung Hoa. Hôm nay vẫn có những Kitô hữu ở Đông phương nhận mình là Nestorian. Công đồng Calcêđônia họp để giải quyết vấn đề “(các) bản tính” của Đức Kitô; công đồng kết án thuyết Nhất tính (Monophysite), tuyên xưng Đức Kitô có hai bản tính trọn vẹn: thiên tính và nhân tính. Đến nay vẫn có các thần học và định chế Nhất tính mạnh mẽ ở Ai Cập, Êthiopia và Armenia. Dù còn có những Kitô hữu theo Nhất tính và Nestorius, đại đa số—kể cả Công giáo, Chính Thống, và phần lớn Tin Lành—chấp nhận giáo huấn của bốn công đồng đại kết này.
Thần học Latinh đến thời thánh Âu-tinh
Dù các sắc lệnh công đồng viết bằng tiếng Hy Lạp, thần học Tây phương phát triển theo những cách khác với tư duy Hy Lạp. Các trước tác Kitô giáo sớm nhất—kể cả toàn bộ Tân Ước—viết bằng tiếng Hy Lạp. Dù Tân Ước và phần lớn thần học Hy Lạp được dịch sang Latinh vào thế kỷ V, tiếng Hy Lạp có vốn từ tinh vi hơn để diễn đạt các vấn đề thần học. Sự giản lược, hiểu sai, hay dịch sai xảy ra không chỉ trong các thế kỷ đầu mà cả Trung Cổ.
Trong số các thần học gia viết Latinh sớm nhất còn tác phẩm đến nay có Tertullianô (m. khoảng 220) và Cyprianô (m. 258). Tertullianô là một trong những nhà thần học khó hiểu nhất; ông là người đầu tiên dùng từ “Ba Ngôi”, và ông cho rằng triết học Hy Lạp vô ích cho Kitô hữu. Cyprianô có cái nhìn hẹp về Giáo Hội: ông bác tính hữu hiệu của phép Rửa do người lạc giáo cử hành và nhìn chung phản đối việc tiếp nhận lại những người “sa ngã”. Đặc biệt trong thế kỷ IV, thần học Latinh nở rộ. Ba “tiến sĩ” Latinh—Giêrônimô, Ambrôsiô và Âu-tinh—sống vào thế kỷ này. Các tác giả Latinh ảnh hưởng khác của thế kỷ IV–V gồm Giăng Cassianô, Ôrôxiô và Hi-lariô thành Poitiers.
Giêrônimô (k. 347–420) sẽ là một trong những tác giả Latinh quan trọng nhất của Kitô giáo Tây phương dù chỉ tính riêng công trình dịch Kinh Thánh sang Latinh. Bản dịch Vulgata của ông là Kinh Thánh của Tây phương suốt hơn nửa lịch sử Kitô giáo. Ông cũng viết các dẫn nhập Kinh Thánh; trước tác về khổ hạnh và đời các thánh ẩn tu. Được giáo dục cổ điển, ông suy tư sâu về tương quan giữa minh triết cổ đại và Kitô giáo.
Ambrôsiô Milano (k. 340–397) được biết nhiều như vị giám mục đã góp phần dẫn thánh Âu-tinh đến với Kitô giáo. Ambrôsiô được rửa tội và được tấn phong giám mục trong cùng một tuần. Trước tác của ông tuy quan trọng, nhưng có lẽ một số hành động với tư cách mục tử còn quan trọng hơn. Luận văn De Officiis (Về bổn phận) của ông là một mốc lớn của thần học mục vụ.
Có lẽ là nhà thần học vĩ đại nhất sau các tác giả Kinh Thánh—là Âu-tinh (354–430). Ngài được đào luyện trong các trường ngoại giáo ở Bắc Phi; cha ngoại giáo, mẹ là thánh Monica. Năm 18 tuổi, ngài bắt đầu quá trình rời khỏi “cái tôi” và các khoái lạc trần gian, nhưng mãi 31 tuổi mới chính thức trở thành Kitô hữu. Chưa đầy một thập niên sau khi chịu phép rửa, ngài được chọn làm giám mục Hippo và phục vụ cho đến khi qua đời (430). Trước tác của Âu-tinh gồm chừng 50 tập hiện đại—khiến ngài là một trong những nhà thần học viết nhiều nhất. Phần lớn là chú giải Kinh Thánh—đặc biệt có bộ chú giải Thánh Vịnh đồ sộ. Ngài viết về các tranh luận thần học lớn thời đó, như Đônatô và Pelagiô. Âu-tinh nhấn mạnh tội lỗi của con người và sự lệ thuộc hoàn toàn vào Thiên Chúa; ngài đặt ra thuật ngữ “tội nguyên tổ”. Ngài cũng là một tác giả quan trọng về… (Giêrônimô dịch cả Cựu Ước và Tân Ước sang Latinh—bản kinh điển ở Tây phương cho tới thế kỷ XVI).
Vì bất khả liệt kê hết các tác phẩm quan trọng của Âu-tinh, ta điểm qua ba tác phẩm. Tự Thuật (Confessiones)—tự truyện thiêng liêng—hoàn tất năm 397: trong thể văn mới mẻ và ảnh hưởng sâu rộng này, ngài thuật cuộc vật lộn khắc khoải để quay lưng khoái lạc trần thế và hướng về Thiên Chúa. De Doctrina Christiana (Về giáo huấn Kitô giáo) bàn về việc đào tạo một Kitô hữu: hiểu biểu tượng, chú giải Kinh Thánh, và ảnh hưởng của nhân cách tác giả đối với thẩm quyền của người ấy. Thành Đô Thiên Chúa—khơi hứng từ việc người Goth cướp phá Rôma (410)—bác lại lập luận ngoại giáo đổ lỗi do bỏ các thần cổ truyền. Tác phẩm đưa ra một cái nhìn sâu sắc và ảnh hưởng về lịch sử nhân loại từ Sáng Thế đến Phán Xét.
Hầu như ở mọi lĩnh vực tư tưởng Kitô giáo, Âu-tinh đều là người khổng lồ; ảnh hưởng của ngài liên tục đối với mọi Kitô hữu Tây phương. Tôma Aquinô—thường bị xem là “rẽ khỏi” Âu-tinh—trích Âu-tinh nhiều hơn bất kỳ tác giả Kitô giáo ngoài Kinh Thánh nào khác. Thế kỷ XVI, các nhà cải cách Tin Lành dựa nhiều vào Âu-tinh và cho rằng người Công giáo đã sai khi rời xa chỉ dẫn của ngài.
Vai trò Giáo hoàng & Giám mục thời Trung Cổ
Khi quyền lực Rôma sụp đổ ở Tây phương (thế kỷ V), giáo hoàng trở thành lãnh chúa trên thực tế ở Rôma, thường bị bao vây bởi các bộ tộc German mà Giáo Hội coi là lạc giáo. Đầu thế kỷ V, Giáo Hội tiến dần đến tính phổ quát trong Đế quốc Rôma, còn chính quyền—ít ra ở Tây phương—thì suy sụp. Các bộ tộc German tràn vào: Rôma bị cướp phá bởi người Goth (410) và Vandals (455). Sau 476, Tây phương không còn hoàng đế. Các bộ tộc German vào đế quốc: hoặc là dân ngoại (Frank, Angle, Saxon) hoặc Kitô hữu theo Ariô (Ostrogoth, Visigoth, Burgundion, Vandal, Lombard).
Hệ quả: không còn bộ máy Rôma để cung ứng công lý, phòng thủ và dịch vụ công. Ai chịu trách nhiệm tiếp tế cho thành phố, ai phòng thủ trước người German? Càng lúc câu trả lời càng là: giám mục địa phương. Các ẩn sĩ, đan sĩ nam nữ cũng trợ giúp cộng đồng chung quanh. Trong khi Giáo Hội đảm nhiệm các công việc hôm nay ta gọi là “đời”, Giáo Hội cũng được làm giàu vật chất. Dante cho rằng đây là khởi điểm suy thoái của Giáo Hội (trong Thần Khúc, viết sau 1300). Ở Rôma và nơi khác, các nhà cai trị Kitô giáo đỡ đầu xây dựng và trang hoàng các đại thánh đường.
Khi các bộ tộc German ở Tây Âu trở thành Kitô hữu (thế kỷ V–VII), xu hướng cúng dường của cải cho Giáo Hội tăng. Một phần do lòng đạo đức chân thành; một phần là “mặc cả” với Thiên Chúa để được cứu rỗi dù đời sống chẳng mấy Kitô giáo. Có cúng dường bằng công trình và trang hoàng; có khi là đất đai. Khi Giáo Hội giàu lên—nhất là đất đai—các vua cần có tiếng nói về việc sử dụng. Đất đai là thước đo chính của của cải—quyền lực đi kèm sở hữu. Vua chúa quan tâm ai nắm đất—chủ yếu là giám mục và viện phụ. Họ dùng quyền thế để ảnh hưởng, thậm chí quyết định việc bổ nhiệm. Tiêu chí “giám mục/viện phụ tốt” theo quan điểm nhà vua khác hẳn tiêu chí của một mục tử tốt lành. Sự giàu có và thế tục hóa của Giáo Hội để lại hệ quả. Giám mục, viện phụ trở thành nhà quản trị tài sản lớn, thành nhân vật quan trọng trong vương quốc. Việc tích lũy tài sản và quyền lực chủ yếu phát sinh từ khoảng trống quyền lực sau Đế quốc; nhưng dễ biện minh—và khó từ bỏ—về sau.
Đời sống tận hiến khổ hạnh — Luật thánh Biển Đức
Nhiều hình thức đan tu khác nhau phát triển trong những năm hỗn loạn khi quyền lực Rôma sụp đổ. Đan tu khởi nơi sa mạc Ai Cập thế kỷ III; giữa thế kỷ IV đã có đan sĩ ở Tây phương. Thế kỷ VI, thánh Biển Đức soạn một luật—quy định đời sống cộng đoàn đan tu ở Montecassino. Luật này lan khắp Tây phương trong hai thế kỷ sau khi ngài qua đời (547), thành công nhờ sự “cân bằng sáng suốt” giữa nghiêm khắc và lẽ thường.
Xung lực đan tu có thể lần về thế kỷ III— thậm chí đến Kitô giáo sơ khai. Đức Giêsu nói về phúc của người nghèo và sống như một người nghèo, không quyền lực, sống độc thân. Trong các thế kỷ đầu, có những phụ nữ—nhất là goá phụ—chọn đời sống đơn sơ, cầu nguyện và phục vụ. Thế kỷ III, một phong trào đan tu khởi sự—đầu tiên trong sa mạc Ai Cập—giữa những người sống “bên rìa” xã hội. Người ta gắn khởi điểm đan tu với thánh Antôn—vào sa mạc năm 269; ngài sống 87 năm trong sa mạc và mất năm 356, thọ 105. Ngài được cả nam nữ tìm đến và noi theo. Athanasiô—giám mục Alexandria—viết Vita Antonii, tiểu sử thánh nhân—tác phẩm hagiography (đời thánh) đầu tiên.
Đời đan tu dần mang hình thức cộng đoàn và lan khắp Đế quốc. Những cộng đoàn đầu tiên ở Ai Cập nửa đầu thế kỷ IV gắn với Pachomius—vị đan sĩ đầu tiên soạn luật cho đời sống cộng đoàn. Thực hành đan tu lan đến Đất Thánh, với nhiều hình thức: ẩn tu, nhóm lỏng lẻo, và cộng đoàn. Văn chương đan tu sơ kỳ ảnh hưởng sâu xa đến Giáo Hội và đan tu Tây phương. Vita Antonii của Athanasiô được dịch sang Latinh. Nhiều lời khôn ngoan của các nam nữ chuyên cầu nguyện được ghi lại trong Apophthegmata Patrum (Các lời dạy của các đan phụ sa mạc). Evagrius—một đan sĩ uyên bác cuối thế kỷ IV—viết những văn bản nền tảng về cầu nguyện. Giăng Cassianô đến thăm các đan sĩ Ai Cập và ghi chép các cuộc đàm thoại, truyền thống—bằng Latinh—rất quan trọng cho đan tu nhiều thế kỷ.
Sau cùng, đan tu Công giáo phát triển dựa trên Luật thánh Biển Đức (Nursia). Biển Đức (480–547)—người Ý—từng sống ẩn sĩ rồi làm viện phụ. Sự nghiêm khắc của ngài khiến một số đan sĩ bất mãn. Khoảng 529, ngài lập đan viện Montecassino, phía nam Rôma, và soạn Luật cho đời sống cộng đoàn. Luật Biển Đức dần lan khắp vùng nói tiếng Latinh. Thành công nhờ sự “cân bằng sáng suốt” giữa nghiêm khắc và lẽ thường. Đức Grêgôriô Cả từng sống theo luật, rồi viết Vita Benedicti—quảng bá mạnh luật này. Khoảng năm 800, về thực chất, Luật Biển Đức là luật duy nhất các đan sĩ Tây phương dùng. Luật được thích ứng cho nữ đan sĩ và trở thành hình thức chủ đạo đời sống nữ đan tu Trung Cổ.
Một số nguyên tắc nền tảng của luật Biển Đức: nhấn mạnh nhu cầu một viện phụ mạnh mẽ—am hiểu nguyên tắc lãnh đạo đời sống thiêng liêng; ấn định nhịp sống đan tu theo chu kỳ: phụng vụ—lao động tay chân—nghỉ ngơi; nhìn đan sĩ như lữ khách, môn sinh, lao động, chiến sĩ, lực sĩ. Ngài rất nghiêm về việc không có sở hữu riêng và bác bỏ mọi phân hạng xã hội trong tu viện. Với ngài, “nhàn rỗi là kẻ thù của linh hồn”. Ngài uyển chuyển trong kỷ luật, chuyện ăn uống, cấu trúc phụng vụ và các sự vụ thực tiễn khác. Biển Đức không xem tu viện là nơi học thuật. Có các truyền thống học thuật ở những đan viện khác, về sau ảnh hưởng các nhà Biển Đức. Ở Ái Nhĩ Lan, đan tu khác biệt vì thiếu phổ cập tiếng Latinh. Khi các thành thị Tây phương suy tàn, trung tâm giáo dục mất vai trò; các tu viện trở thành trung tâm giáo dục trong nhiều thế kỷ. Có nhiều cuộc canh tân quan trọng của đan tu Biển Đức trong Trung Cổ và về sau; cũng có những nếp sống đan tu mới không theo luật Biển Đức.
Truyền giáo vùng Bắc Âu và Đông Âu
Hầu như bên ngoài biên cương Đế quốc Rôma không có Kitô hữu ở Tây phương; thậm chí Anh quốc quay lại ngoại giáo sau khi đế quốc sụp. Sự tăng trưởng nhanh của Kitô giáo trong thế kỷ sau khi Constantinus trở lại nhìn chung giới hạn trong ranh giới đế quốc. Ngoại lệ quan trọng: các hình thức Kitô giáo riêng biệt ở Armenia, Georgia, Ethiopia. Đế quốc không gồm Ái Nhĩ Lan, Scotland, Scandinavia, hay phần châu Âu phía đông sông Rhine và bắc sông Danube. Do đó, một phần lớn châu Âu vẫn ngoại giáo. Câu chuyện hoán cải các dân này là một trong những trang sử quan trọng nhất của Kitô giáo.
Bắt đầu với Ái Nhĩ Lan—hôm nay gần như gắn liền với Công giáo. Anh quốc phần lớn trở thành Kitô giáo thế kỷ IV, nhưng Ái Nhĩ Lan thì không vì chưa từng thuộc Đế quốc. Người Ireland buôn bán với Anh hẳn biết Kitô giáo; có thể có vài nhà thờ ở bờ tây Ireland cho thương nhân Anh dùng. Nửa đầu thế kỷ V, một thanh niên Kitô hữu tên Patrick bị hải tặc Ireland bắt cóc, làm nô lệ ở đó. Sau khi trốn thoát về Anh, ông cảm thấy được kêu gọi đem Kitô giáo đến cho chính những kẻ từng bắt ông. Phần đời còn lại, Patrick làm nhà truyền giáo cho Ireland. Lúc ấy, người Rôma đã rút khỏi Anh; Patrick và những người ông hoán cải hầu như tự mình mở đường truyền bá Lời Chúa.
Kitô giáo Ireland có vài đặc điểm khác lục địa: cơ cấu đan tu và lịch phụng vụ khác. Các đan sĩ Ireland đem Kitô giáo tới Scotland (cũng chưa từng thuộc Đế quốc) và trở lại Anh (đã phần lớn quay về ngoại giáo). Các đan sĩ Ireland cũng sang lục địa; họ thấy luân lý và thực hành Kitô giáo ở đó lỏng lẻo, trình độ giáo dục thấp. Họ đem tinh thần canh tân đan tu và giáo hội đến Gaule và Ý, nâng cao chuẩn mực học thuật. Khi các nhà truyền giáo Rôma đến Anh khoảng năm 600, họ xung đột với truyền thống Ireland; khác biệt được giải quyết có lợi cho Rôma tại Thượng hội đồng Whitby (664), và dần dần Ireland vào quỹ đạo Rôma.
Tiếp đến là việc hoán cải các bộ tộc German. Angle—Saxon ở Anh và Frank ở Gaule là dân ngoại; Vandal Bắc Phi, Visigoth bán đảo Iberia, Ostrogoth và Lombard ở Ý là Kitô hữu Ariô. Vấn đề hai mặt: hoán cải dân ngoại và “đem về” những người theo Ariô. Do đã có dân Công giáo ở nơi người German Ariô định cư, rốt cuộc họ cũng trở thành Công giáo, dù Lombard phải đến thế kỷ VIII. Bắc Phi hầu như mất khỏi Kitô giáo bởi các cuộc chinh phục Hồi giáo thế kỷ VII.
Vì người Anglo-Saxon ngoại giáo chiếm đa phần Anh, Đức Grêgôriô Cả khởi xướng cuộc truyền giáo (khoảng 597) để tái Kitô hóa. Việc hoán cải người Frank được ghi chép tốt nhất nhờ Lịch sử người Frank của Giám mục Grêgôriô thành Tours (cuối thế kỷ VI). Vua Clovis và 3.000 binh sĩ Frank chịu phép rửa—ít nhất là “trên danh nghĩa”. Trong khoảng một thế kỷ kế tiếp, hầu như không có nỗ lực nghiêm túc để phổ cập hay đào sâu đức tin ở vương quốc Frank. Chỉ đến thế kỷ VIII mới có hoạt động truyền giáo nghiêm túc—thường đi kèm sức mạnh quân sự—đem đức tin tới dân German phía đông sông Rhine; vùng này chỉ thực sự Kitô hóa sau khi Charlemagne chinh phục. Việc Kitô hóa Scandinavia German bắt đầu sau khi người Viking tấn công Gaule và Anh. Những nền văn hóa kết hợp độc đáo yếu tố Kitô giáo và German xuất hiện tận Iceland. Người Magyar (Hungary) tiến vào vùng đất thưa vắng sau khi Charlemagne đánh bại người Avar; họ tấn công các vùng Kitô giáo, gây nhiều tàn phá. Năm 1000, vua Stephen của người Magyar đón nhận Kitô giáo, mở đầu quá trình hội nhập văn hóa Công giáo Tây Âu.
Ngay từ thế kỷ IX, đã có căng thẳng giữa các nhà truyền giáo Tây và Đông làm việc giữa người Slav phía bắc sông Danube. Các nhà truyền giáo Constantinopolis ban cho Moravia bảng chữ cái Kirin và dịch Kinh Thánh, phụng vụ sang tiếng bản địa. Nhưng rốt cuộc, phần vì lý do chính trị, người Moravia chọn hình thức Kitô giáo Rôma. Vị vua Kitô giáo đầu tiên của Ba Lan trị vì giữa thế kỷ X. Các dân Slav phương bắc khác trở thành Công giáo muộn hơn—Lithuania thế kỷ XIV. Người Nga đón nhận Kitô giáo từ Constantinopolis và—cùng đa số Slav phương nam—thuộc truyền thống Chính Thống hơn là Công giáo. Đến khoảng sau năm 1000, Kitô giáo Công giáo hiện diện hầu khắp châu Âu, và các ranh giới tương đối ổn định giữa Công giáo và Chính Thống được hình thành.
👉 (đọc tiếp các chương tiếp theo tại đây)
Chưa có Đánh giá/Bình luận nào được đăng.
Hãy trở thành người đầu tiên đóng góp nội dung cho Bài viết này.