Giáo hội trước các thử thách mới
LƯỢC SỬ GIÁO HỘI CÔNG GIÁO
Joseph Tân Nguyễn, ofm biên soạn
I. SỰ THÀNH HÌNH CỦA GIÁO HỘI SƠ KHAI
II. GIAI ĐOẠN PHÁT TRIỂN ĐẦU TIÊN
III. TRANH CHẤP GIỮA GIÁO QUYỀN & THẾ QUYỀN
IV. ĐỈNH CAO CỦA GIÁO HỘI TRUNG CỔ
V. GIÁO HỘI CHIA RẼ VÀ CẢI CÁCH
VI. GIÁO HỘI TRƯỚC CÁC THỬ THÁCH MỚI
VII. GIÁO HỘI HƯỚNG VỀ THẾ GIỚI
VI. GIÁO HỘI TRƯỚC CÁC THỬ THÁCH MỚI
Giáo hội Công giáo ở Á châu và Tân Thế Giới
Khởi đầu với các tu sĩ Phanxicô và Đa Minh, các nhà truyền giáo Công giáo đã đến Tân Thế Giới và nỗ lực loan truyền đức tin. Khi người Bồ Đào Nha đi vòng qua Mũi Hảo Vọng năm 1488 và Colombo đặt chân đến Tân Thế Giới năm 1492, chúng ta có thể nói về một Giáo hội trải rộng khắp địa cầu. Các nhà truyền giáo Kitô giáo đã đến Đông Á vào cuối thế kỷ XIII và lập một giáo phận tại Bắc Kinh vào đầu thế kỷ XIV. Lâu nay vẫn có những hình thức Kitô giáo không thuộc Công giáo Rôma tại châu Phi và châu Á. Khoảng năm 1600, đã có các nhà truyền giáo Công giáo hiện diện ở châu Mỹ, Ấn Độ, Trung Hoa, Nhật Bản, Việt Nam, Ethiopia và Congo.
Những giáo sĩ Công giáo đầu tiên đến châu Mỹ là các tu sĩ Phanxicô, Đa Minh và Augustinô. Dòng Phanxicô đặt chân lên Santo Domingo (Hispaniola) năm 1500, và đến năm 1511 đã có ba giáo phận được thiết lập ở Tân Thế Giới. Nhà truyền giáo sớm quan trọng nhất là Bartolomé de las Casas, một tu sĩ Đa Minh người Tây Ban Nha, người đã dành nhiều năm để bênh vực quyền lợi của thổ dân. Về sau, trong thế kỷ XVI, Dòng Tên cũng sai các nhà truyền giáo đến Tân Thế Giới.
Việc cải đạo thổ dân thường mang tính cưỡng bức và hiếm khi đi kèm giáo lý vỡ lòng hay chăm sóc mục vụ. Với nhiều thổ dân, chính quyền Tây Ban Nha và Kitô giáo là một. Nhiều người đặt nghi vấn về Kitô giáo vì sự tàn bạo, bắt làm nô lệ, thậm chí sát hại hàng loạt do binh lính Tây Ban Nha gây ra. Người Công giáo hầu như không nỗ lực tìm hiểu các truyền thống tôn giáo của người Maya, Inca và các dân tộc khác.
Khi Cortés bắt đầu chinh phục Mexico năm 1519, ông có hai linh mục đi theo. Đến năm 1559, đã có 80 tu viện Phanxicô và 40 tu viện Đa Minh ở Mexico. Cũng có các tu sĩ Đa Minh theo Pizarro khi ông bắt đầu chinh phục đế quốc Inca (nay là Peru). Nhìn chung, người Công giáo Tây Ban Nha ở Mỹ Latinh không sẵn sàng nhường bất cứ điều gì cho thổ dân.
Ba vị thánh quan trọng xuất hiện trong thời thuộc địa. Juan Diego được rửa tội bởi các tu sĩ Phanxicô đi cùng Cortés đến Mexico; ông đã thị kiến Đức Mẹ Guadalupe và được Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II tuyên thánh. Martin de Porres là con của một quý tộc Tây Ban Nha và một phụ nữ châu Phi; ông trở thành tu huynh Đa Minh sống khổ hạnh và được Thánh Gioan XXIII tuyên thánh năm 1962, trở thành vị thánh da đen đầu tiên của châu Mỹ. Rôsa thành Lima (Peru) cũng thuộc Dòng Đa Minh, sống khổ hạnh và là mẫu gương bác ái Kitô giáo; bà được tuyên thánh năm 1671.
Xét về hai sứ mạng Công giáo ở châu Phi: năm 1491, các nhà truyền giáo Bồ Đào Nha đã rửa tội cho một vị vua Congo; khu vực này vẫn khá Công giáo đến tận thế kỷ XVIII. Bản thân Ignatius Loyola cũng rất quan tâm đưa các Kitô hữu Ethiopia về hiệp thông với Công giáo.
Dù bối cảnh khác biệt, sự lan rộng Công giáo Rôma tại châu Á là một trong những câu chuyện quan trọng nhất của lịch sử truyền giáo Kitô giáo. Tại Goa, bờ tây Ấn Độ, đã có linh mục Công giáo cư trú kể từ khi người Bồ Đào Nha chiếm nơi này năm 1510. Tu sĩ Dòng Tên Phanxicô Xaviê đang truyền giáo ở vùng nay là Indonesia thì gặp một người Nhật tên Anjirō thúc giục ông sang Nhật. Xaviê khuyến khích Anjirō dịch Tin Mừng Mátthêu sang tiếng Nhật và có một thời gian truyền giáo khá thành công, đưa nhiều người theo đạo. Sau đó, ông hướng đến Trung Hoa nhưng qua đời trước khi có thể bắt đầu sứ vụ ở đó. Công giáo phát triển ở Nhật cho đến khoảng năm 1600, khi nhà cầm quyền lo ngại trước sự thành công của Giáo hội; các Kitô hữu bị hành quyết hàng loạt và Công giáo thực tế bị xóa sổ.
Nhà truyền giáo Công giáo quan trọng nhất tại Trung Hoa là Matteo Ricci, tu sĩ Dòng Tên người Ý, đến năm 1583. Cuối thế kỷ XVI, một số người Trung Hoa oán ghét Kitô giáo vì trước đó hoàng đế Nhật đã dùng một đội quân Kitô hữu Nhật tấn công Trung Hoa. Ricci học tiếng Hoa và sống lối sống kiểu Trung Hoa khi truyền giáo, dù không hoàn toàn hòa nhập vào đời sống của các nho sĩ. Ông học toán, lĩnh vực hấp dẫn giới trí thức Trung Hoa, và nổi tiếng về trí nhớ phi thường cùng phương pháp luyện trí nhớ. Ông viết vài sách tiếng Hoa về giáo lý Kitô giáo và về nghệ thuật ghi nhớ, dùng kỹ thuật in ấn để phổ biến giáo huấn. Ông đã đưa ba thành viên nhỏ trong hoàng tộc cải sang đạo. Dù hoàng đế và một số người chấp nhận hình ảnh Đức Mẹ bồng Con, họ không thích hay hiểu được hình ảnh Đức Kitô chịu đóng đinh.
Nửa sau thế kỷ XVI, Tây Ban Nha chinh phục Philippines và đưa các nhà truyền giáo Kitô giáo đến đó. Cho đến khi Đông Timor độc lập năm 2002, Philippines là quốc gia duy nhất ở Đông Á có đa số dân theo Kitô giáo; cả hai quốc gia này chủ yếu là Công giáo.
Giáo hội Công giáo Hoa Kỳ
Trong thế kỷ XIX, Công giáo Hoa Kỳ thay đổi sâu sắc khi hàng triệu người nhập cư Công giáo—đặc biệt từ Ireland, Đức, Ý và Đông Âu—đổ đến. Công giáo trên vùng đất nay là Hoa Kỳ có nguồn gốc từ thế kỷ XVI qua các nhà chinh phục và thám hiểm Tây Ban Nha ở Texas, Florida, New Mexico, Arizona và California. Những người Công giáo đầu tiên trên lãnh thổ Hoa Kỳ hiện nay là ở Puerto Rico. Thánh lễ đầu tiên trong 48 bang hạ lục có lẽ đã được cử hành tại thuộc địa Tây Ban Nha ở Florida năm 1521; có khả năng một thánh lễ khác diễn ra ở thuộc địa Anh tại Virginia năm 1526. Cộng đoàn Công giáo định cư lâu dài đầu tiên là St. Augustine (Florida ngày nay) năm 1565. Dù thời kỳ cực thịnh của các sứ vụ ở Tây Nam là thế kỷ XVIII muộn, các tu sĩ Phanxicô đã hiện diện ở Texas, Arizona, New Mexico và California ngay từ thế kỷ XVI. Công giáo được du nhập vào vùng Đông Bắc và Ngũ Đại Hồ trong thế kỷ XVII bởi các tu sĩ Dòng Tên người Pháp.
Khu định cư Công giáo lớn sớm nhất là Maryland. Năm 1632, Vua Charles I ban đất phía bắc và đông sông Potomac cho Cecil Calvert, Lãnh chúa Baltimore thứ hai, một tín hữu Công giáo; vùng này được gọi là Maryland để tôn vinh Hoàng hậu Henrietta Maria. Maryland có cộng đồng Công giáo đông nhất (khoảng 10%) và thực hành khoan dung tôn giáo. Từ Maryland xuất thân người Công giáo duy nhất ký Tuyên ngôn Độc lập—Charles Carroll—và vị giám mục Hoa Kỳ đầu tiên, John Carroll của Baltimore.
Trong thời thuộc địa và giai đoạn cộng hòa sơ kỳ, chỉ 1–2% dân số là Công giáo. Linh mục rất ít. Maryland có chừng 16.000 người Công giáo nhưng chỉ 19 linh mục; New York City có 1.500 người Công giáo mà không có linh mục nào. Có các linh mục “cưỡi ngựa mục vụ” đi các nơi, nhưng đa phần giáo dân phải tự lo liệu. Bản Kinh Thánh tiếng Anh được Công giáo phê chuẩn—bản Douay-Rheims—được in lần đầu tại Hoa Kỳ. Tương lai Chánh án Tối cao Pháp viện John Jay từng đề nghị cấm người Công giáo bỏ phiếu hoặc sở hữu đất ở New York, trong khi nhà Thống nhất (Unitarian) John Adams lại là người quyên góp lớn nhất để xây dựng một nhà thờ Công giáo ở Boston. Có thể xem “thí nghiệm Hoa Kỳ” là nơi đầu tiên Giáo hội Công giáo có cấu trúc phẩm trật hiện hữu trong một xã hội dân chủ, bình đẳng. Đến thập niên 1820, Hoa Kỳ có 11 giáo phận.
Tỷ lệ người Công giáo tăng nhanh ở nửa sau thế kỷ XIX, bắt đầu với gần một triệu người Ireland và nửa triệu người Đức vào năm 1850. Đan viện Công giáo đầu tiên, St. Vincent tại Latrobe, Pennsylvania, được lập năm 1846; tiếp theo là đan viện Xitô Trappe Gethsemani ở Kentucky (1848). Không lâu sau Nội chiến, làn sóng khổng lồ người Ý, Ba Lan và các dân từ Đế quốc Áo-Hung (đa số là Công giáo) nhập cư. Đến năm 1900, khoảng 1/5 dân số Hoa Kỳ là Công giáo. Các nhóm nhập cư định cư ở thành phố lập nên các giáo xứ sắc tộc, có trường học và dịch vụ xã hội hỗ trợ cộng đồng của họ; họ mang theo các thực hành đạo đức dân gian như tôn kính các thánh, rước kiệu.
Trong thế kỷ XX, người Công giáo Hoa Kỳ vừa xây dựng các thiết chế riêng vừa hội nhập sâu vào dòng chính. Họ lập nhiều hội đoàn mới như Knights of Columbus và các liên minh chống kỳ thị. Số lượng và tầm vóc các đại học, cao đẳng Công giáo gia tăng nhanh chóng. Họ sáng lập vô số cơ quan bác ái xã hội, hình thành mạng lưới dịch vụ xã hội tư nhân lớn nhất thế giới.
Thành công kinh tế đưa người Công giáo dần tản ra vùng ngoại ô và hòa nhập sâu hơn vào đời sống Hoa Kỳ. Hoa Kỳ khẳng định vị trí trong Giáo hội hoàn vũ khi các giám mục tham dự Công đồng Vatican I. Năm 1965, Đức Phaolô VI là giáo hoàng đương nhiệm đầu tiên thăm Hoa Kỳ; sau đó có nhiều chuyến thăm của Gioan Phaolô II và một chuyến của Biển Đức XVI. Ảnh hưởng của Vatican II tại Hoa Kỳ sâu sắc như ở những nơi khác: phụng vụ chuyển từ Latin sang bản ngữ; giáo dân được tham gia tích cực hơn.
Giáo hội đối diện nhiều thách đố sau Vatican II, có mặt thành công, có mặt không. Số người dự lễ suy giảm; một số thực hành truyền thống như xưng tội thường xuyên hầu như biến mất. Vai trò phụ nữ gây nhiều tranh luận. Dù thông điệp Humanae vitae của Phaolô VI, tỷ lệ người Công giáo dùng ngừa thai nhân tạo tương đương người không Công giáo. Số linh mục tiếp tục giảm—khoảng một nửa kể từ 1975—dẫn tới việc giáo dân đảm nhận nhiều vai trò điều hành hơn. Tổn thương nặng nề nhất là khủng hoảng lạm dụng tình dục. Khoảng một phần ba người Công giáo Hoa Kỳ có tiếng mẹ đẻ là tiếng Tây Ban Nha, đặt ra nguy cơ phân hóa văn hóa trên thực tế.
Sau cùng, có thể nhắc đến một số vị Công giáo Hoa Kỳ đã được phong thánh hay chân phước: từ thời tiếp xúc ban đầu có tử đạo Dòng Tên Isaac Jogues, thánh nữ Mohawk Kateri Tekakwitha, Chân phước Junípero Serra và Cha Damien de Veuster ở Molokai. Thánh Phanxicô Xaviê Cabrini lập dòng phục vụ người nghèo ở New York. Gioan Neumann là nhà truyền giáo vùng tây New York, sau là giám mục Philadelphia. Elizabeth Seton—vị thánh Hoa Kỳ đầu tiên sinh tại Mỹ gốc Âu—lập một hội dòng nữ. Katharine Drexel, xuất thân một gia đình trứ danh ở Philadelphia, lập các trường học cho người thổ dân và trẻ em da đen.
Giáo hội Công giáo và chủ nghĩa Duy Lý
Thời Khai Sáng thách thức không chỉ một hình thức Kitô giáo cụ thể mà cả Kitô giáo nói chung, cũng như tôn giáo nói chung. Kitô giáo—và Công giáo—có những người bảo vệ sẵn sàng đối thoại với ý tưởng mới, nhưng cũng có người bác bỏ toàn bộ việc bênh vực đức tin dựa trên lý tính. Rõ ràng thế kỷ XVI đã chứng kiến những phần lớn của châu Âu rời bỏ sự vâng phục Công giáo, nhưng khó ai dự báo được thế kỷ XVII–XVIII còn khó khăn hơn cho Giáo hội. Trước hết, hãy nhìn vị thế Công giáo ở châu Âu khoảng năm 1650. Cuối thế kỷ XVI và đầu XVII bị chi phối bởi các cuộc chiến tôn giáo, đỉnh điểm là Chiến tranh Ba Mươi Năm. Năm 1633, Galileo Galilei bị Đức Urbanô VIII kết án vì phổ biến thuyết nhật tâm. Năm 1637, René Descartes xuất bản Luận về phương pháp, nhấn mạnh lý trí và bằng chứng, đặt ra những thách thức nghiêm trọng cho Kitô giáo truyền thống, kèm mệnh đề nổi tiếng: “Tôi tư duy, nên tôi hiện hữu.”
Ta thường gọi cuối thế kỷ XVII và thế kỷ XVIII là Thời Khai Sáng—một thời kỳ khó khăn cho Công giáo. Pháp khi đó là quốc gia Kitô giáo lớn nhất châu Âu và là trung tâm tư tưởng Khai Sáng. Pháp có truyền thống bao dung tôn giáo và bán tự trị trong Giáo hội, dù phần lớn đã đổi khác từ thập niên 1680. Cornelius Jansen đề xuất một thần học nhấn mạnh sự lệ thuộc hoàn toàn của con người vào ân sủng Thiên Chúa; phong trào Jansen có ảnh hưởng đáng kể ở Pháp và bị đàn áp từ năm 1660.
Một tranh luận thần học khác bùng nổ quanh Quietism, một xu hướng thần bí nhấn mạnh sự thụ động. Các trí thức Khai Sáng Pháp như Denis Diderot và Voltaire tỏ ra coi thường Kitô giáo nói chung và Công giáo nói riêng. Lý trí ngự trị; không còn chỗ cho phép lạ, thẩm quyền siêu nhiên hay tín điều. Công giáo bị phê phán vì nạn tham nhũng nơi hàng lãnh đạo và mê tín. Cũng trong thời này, cái mà ta gọi là phê bình Kinh Thánh hiện đại khởi phát.
Một tranh cãi lớn khác của thế kỷ XVIII liên quan đến Dòng Tên. Dòng đã trở nên quyền lực và mang tiếng là can dự chính trị. Hãy nhớ, Dòng Tên “linh hoạt” hơn các dòng khác vì đời sống cộng đoàn ít ràng buộc và có lời khấn vâng phục đặc biệt với giáo hoàng. Việc đàn áp bắt đầu từ Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Pháp và một số nước Công giáo nhỏ vào thập niên 1760. Năm 1773, giáo hoàng giải thể Dòng Tên. Tuy nhiên, dòng không hoàn toàn biến mất, tiếp tục hoạt động ở Đông Âu và được phục hồi năm 1814.
Trong “Thời đại Lý trí”, các giáo hoàng thường không phải là những nhà lãnh đạo mạnh. Họ bị đối xử như các tiểu vương Ý, và đôi khi hành xử cũng giống vậy. Quan điểm cho rằng thẩm quyền giáo hoàng vươn khắp Kitô giới (ultramontanism) không được coi trọng ngoài nước Ý.
Đáng chú ý là sự ra đời của nhóm Bollandists—một nhóm tu sĩ Dòng Tên—từ thế kỷ XVII–XVIII (cho đến khi dòng bị đàn áp) chuyên sưu tầm và hiệu đính các bản văn hạnh thánh, xuất bản theo lịch kính các thánh trong bộ Acta Sanctorum. Công việc này tiếp tục bởi các dòng khác trong thời kỳ Dòng Tên bị giải thể. Đến nay, Bollandists vẫn tiếp tục biên tập và nghiên cứu để gìn giữ truyện tích các thánh.
Đức Piô IX và tín điều bất khả ngộ
Đức Piô IX ban hành Syllabus Errorum (Bản liệt kê các sai lầm), lên án nhiều yếu tố của tư tưởng và lối sống hiện đại. Năm 1869, ngài triệu tập công đồng đầu tiên kể từ Trentô, xác lập tín điều—từ đó đến nay vẫn thường bị hiểu sai—về tính bất khả ngộ của giáo hoàng. Thời Cách mạng Pháp là giai đoạn đau thương cho Công giáo: Pháp cách mạng công kích hầu như mọi điều thuộc Công giáo—trường học, đan viện, và cả hàng giáo sĩ. Nhiều nhà thờ thời Trung cổ bị phá hủy. Tòa Thánh rơi vào nguy cơ nghiêm trọng; Napoléon bắt giam Piô VII năm 1809 sau khi ngài tuyệt thông ông. Có người tin rằng chế độ giáo hoàng sẽ sớm chấm dứt.
Trong thế kỷ XIX, Giáo hội đối diện nhiều thách thức: các ý thức hệ cách mạng mới (xã hội chủ nghĩa, Marxist) thách thức trực tiếp giáo huấn Công giáo; phong trào Risorgimento ở Ý muốn thống nhất bán đảo. Đức Piô IX (trị vì 1846–1878)—giáo hoàng tại vị lâu nhất—đối diện những vấn đề ấy. Ngài kế vị Đức Grêgôriô XVI bảo thủ (nhiều người gọi là phản động), người chống các công nghệ mới và mọi cải cách của chính quyền Lãnh địa Giáo hoàng, dù có ra sắc lệnh chấm dứt buôn nô lệ đối với người Công giáo.
Ban đầu Piô IX được dân Lãnh địa Giáo hoàng hoan nghênh như một giáo hoàng có tư tưởng tiến bộ và tỏ ra hứng thú với Risorgimento. Sau đó, thủ tướng của ngài bị dân Rôma phản đối và ám sát. Piô IX phải cải trang làm linh mục để chạy khỏi Rôma; nhờ quân Pháp, ngài trở lại và từ đó trở nên kiên định bảo thủ.
Hành động quan trọng nhất đầu triều của Piô IX là tuyên tín điều Vô Nhiễm Nguyên Tội (1854): Đức Maria, dù được thụ thai theo cách tự nhiên, vẫn được gìn giữ khỏi tội tổ tông. Đây là niềm tin phổ biến, nhưng tranh luận nhiều thế kỷ. Gây tranh cãi hơn là cách ngài tuyên tín: “nhờ quyền của Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta, các thánh Tông đồ Phêrô và Phaolô, và bởi chính thẩm quyền của chúng tôi”—lần đầu một giáo hoàng định tín mà không qua công đồng hay giám mục đoàn.
Thủ tướng Piedmont Camillo Cavour thiết kế kế hoạch thống nhất Ý. Ông tìm cách giảm quyền lực Giáo hội ở Piedmont bằng cách giải tán nhiều đan viện. Tưởng như Ý sẽ có bốn vương quốc liên bang với giáo hoàng làm chủ tịch danh dự; kế hoạch sụp đổ khi Pháp (một thành tố chính) và Piedmont giao chiến năm 1859. Vua Piedmont lập vương quốc Ý với thủ đô Florence, thâu tóm nhiều vùng thuộc Lãnh địa Giáo hoàng hàng thiên niên kỷ. Giáo hoàng chỉ còn thành Rôma và vùng Lazio—một “nhà nước” khó khả thi. Thập niên 1860, Lãnh địa Giáo hoàng cố trụ độc lập; năm 1870, Garibaldi tiến vào Rôma, chiếm dinh giáo hoàng, trên thực tế chấm dứt Lãnh địa; Rôma trở thành thủ đô vương quốc Ý mới.
Ý tưởng bất khả ngộ vốn nảy sinh từ thế kỷ XIII chủ yếu để giới hạn quyền giáo hoàng (vì “bất khả ngộ” cũng có nghĩa là “bất khả cải”). Năm 1864, Piô IX ban Syllabus Errorum, gần như không phân biệt tinh tế, lên án hầu như mọi ý tưởng mới của thế kỷ XIX: liệt kê các sai lầm người Công giáo phải tránh—đặc biệt tư tưởng Khai Sáng đề cao lý trí; đả phá cộng sản, xã hội chủ nghĩa, hội kín; bảo vệ quyền truyền thống của Giáo hội; và bàn đến các sai lầm liên quan trực tiếp giáo hoàng.
Piô IX triệu tập Công đồng chung đầu tiên kể từ Trentô (1563): Công đồng Vatican I. Ngài cho rằng cách tốt nhất để đối phó các khó khăn là định tín bất khả ngộ. Công đồng chủ yếu được triệu để phê chuẩn tín điều, ít bàn chuyện khác. Dù kính trọng giáo hoàng, nhiều giám mục cũng lệ thuộc tài chính vào Tòa Thánh. Có chống đối đáng kể, nhất là từ Đức và một số giám mục Pháp; các ủng hộ nhiệt thành phần lớn đến từ Ý và Tây Ban Nha. Vấn đề: cần nhất trí, siêu đa số hay đa số đơn? Các công đồng trước không cho hướng dẫn rõ ràng.
Lập luận ủng hộ bất khả ngộ được trình bày là dựa trên Kinh Thánh và truyền thống; họ dùng chính các đoạn Kinh Thánh mà Lêô Cả từng dùng 1.400 năm trước để biện minh cho quyền tài phán hoàn vũ—một điều rất khác. Lập luận từ truyền thống thường bị tách khỏi bối cảnh lịch sử. Khi bỏ phiếu cuối, vẫn có bất đồng, nhưng họ quy phục sau kết quả. Ở vùng nói tiếng Đức xảy ra ly khai lập “Giáo hội Cựu Công giáo”, tồn tại đến nay. Ngày hôm sau khi sắc lệnh qua, Chiến tranh Pháp–Phổ bùng nổ; chẳng bao lâu Garibaldi vào Rôma. Công đồng không bao giờ bế mạc chính thức.
Khi Gioan XXIII triệu tập Công đồng Vatican II, phương pháp và kết quả của Vatican I được nghiên cứu sâu; có người dự đoán Vatican II sẽ là “tiếp nối” Vatican I sau 90 năm. Thần học gia Hans Küng viết Infallible? An Inquiry, chất vấn nghiêm trọng định nghĩa năm 1870; sử gia Brian Tierney với The Origins of Papal Infallibility đặt vấn đề: làm sao xác định những tuyên bố giáo hoàng trước 1870 nào là bất khả ngộ, nào không?
Những người ủng hộ hiến chế Pastor Aeternus xem tín điều như sức mạnh nâng đỡ Giáo hội lúc lạc hướng; kẻ khác coi đó là chướng ngại cho—trong số nhiều điều—đại kết Kitô giáo. Dù đứng ở đâu, tầm quan trọng của nó là không thể xem nhẹ.
Đức Lêô XIII và não trạng tân thời
Sau triều đại kỷ lục của Piô IX, Lêô XIII trị vì một phần tư thế kỷ và có lập trường “tiến bộ” hơn với thế giới hiện đại. Khi được bầu, ngài hầu như là “tù nhân” trong Vatican và sẽ như thế suốt triều đại. Không cường quốc châu Âu nào là đồng minh của giáo hoàng, kể cả vương quốc Ý mới. Ở Đức xảy ra ly khai; nhiều lãnh đạo là thần học gia chống bất khả ngộ. Dù cao tuổi, Lêô XIII trị vì 25 năm—tức nửa sau thế kỷ XIX chỉ có hai giáo hoàng.
Lêô XIII bảo thủ vững chắc nhưng có tầm nhìn rộng hơn Piô IX. Ngài ái mộ các giáo hoàng Trung cổ, nhất là Innocent III (hài cốt được đưa về Rôma), nâng tầm thần học Trung cổ—đặc biệt các trước tác của Thánh Tôma Aquinô—lên vị thế chưa từng có. Sự quảng bá các giá trị và thực hành Trung cổ cho thấy ngài không phải mẫu giáo hoàng của giới tự do châu Âu kỳ vọng; tuy vậy, ngài nỗ lực hòa giải với Đức, Pháp, Ý (riêng Ý thất bại). Ngài cho phép người Công giáo hòa giải với các thể chế đề cao tự do cá nhân và nhân quyền.
Triều đại Lêô XIII trùng với thời công nghiệp hóa; giới công nhân cho rằng Giáo hội đứng về phía giàu có và quyền lực. Ngài biết đến các trước tác của giám mục Đức Wilhelm Emmanuel von Ketteler, người khẳng định Giáo hội có trách nhiệm với cấu trúc xã hội và thăng tiến quyền người lao động.
Năm 1891, Lêô XIII ban thông điệp Rerum Novarum—một trong những thông điệp quan trọng nhất thời cận đại—kết hợp các chủ đề truyền thống với lập trường mới về lao động và người lao động. Thông điệp có ảnh hưởng to lớn, được nhiều giáo hoàng “cập nhật” và truyền cảm hứng cho các thần học tập chú người nghèo, người bị áp bức. Chỉ riêng việc Giáo hoàng tập trung vào một vấn đề hiện đại của đô thị công nghiệp đã là điều hệ trọng: ngài chống chủ nghĩa xã hội, cộng sản; bênh vực quyền sở hữu, tự do thờ phượng, tính toàn vẹn gia đình; đồng thời cho rằng không thể và cũng không nên xóa bỏ mọi bất bình đẳng.
Rerum Novarum đưa ra nhiều lập luận mới (với Giáo hội): nỗi khốn cùng của nhiều công nhân là bất công; chủ nhân vô cảm và cạnh tranh không kiểm soát là nguyên nhân; giàu–nghèo bình đẳng trước nhà nước; lao động hằng ngày phải được điều tiết; hạn chế nghiêm ngặt lao động trẻ em; đối xử công bằng với phụ nữ; quyền lao động để mưu sinh là tự nhiên—hệ quả là quyền được trả “lương đủ sống”; điều kiện vệ sinh nơi làm việc phải được đảm bảo; công đoàn được ủng hộ như kế thừa các phường hội Trung cổ.
Kế vị Lêô XIII là Piô X—một giáo hoàng rất khác: sinh trong gia đình nghèo, mục tử cơ sở trước khi thăng tiến phẩm trật; ngoại giao kém, gây căng thẳng với Pháp; đổi mới thực hành mục vụ khi khuyến khích rước lễ thường xuyên, thậm chí hằng ngày; chống “chủ nghĩa tân tiến” (đòi xét lại thần học theo tri thức mới); khởi động Bộ Giáo luật; sống nghèo và bác ái nên được mến mộ; năm 1954, Piô XII tuyên thánh ngài—giáo hoàng đầu tiên từ thế kỷ XVII được phong thánh.
Triều Piô XII là một trong những giai đoạn then chốt và gây tranh cãi. Trước đó, Hồng y Pacelli đã viết thư mục vụ lên án Hitler là kẻ điên. Sau triều Benedict XV ngắn ngủi, Piô XI (1922–1939) ký Hiệp ước Lateran—giáo hoàng từ bỏ Lãnh địa Giáo hoàng để đổi lấy chủ quyền trên Quốc gia Thành Vatican; ký nhiều hiệp ước (concordat); phản đối cộng sản và phát xít Đức; cởi mở với khoa học; ra thông điệp Quadragesimo Anno nhân 40 năm Rerum Novarum.
Piô XII là nhà ngoại giao từng đi nhiều, có thời gian dài ở Đức; là vị giáo hoàng đầu tiên từng thăm Hoa Kỳ và Nam Mỹ; có ảnh hưởng lớn trong cuộc đối thoại của Giáo hội với hiện đại; khuyến khích nghiên cứu Kinh Thánh bằng các phương pháp học thuật hiện đại, mời giáo dân đọc Kinh Thánh; tự mình dùng thẩm quyền bất khả ngộ để định tín Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời. Vấn đề gây tranh cãi nhất liên quan Đệ nhị Thế chiến và Holocaust: ngài che chở người Do Thái trong Vatican khi họ bị lệnh trục xuất khỏi Rôma; hàng ngàn người khác được ẩn náu trong nhà thờ, đan viện, tu viện. Dẫu có những sách giật gân tố ngài “cộng tác” với Đức Quốc xã, học thuật hiện đại cho thấy Piô XII đã thực thi một kế hoạch nhằm giảm thiểu tàn khốc của Holocaust và chiến tranh.
Giáo hội Công giáo Đông phương
Trong vài thế kỷ qua, một số cộng đoàn không Công giáo—chủ yếu Chính Thống giáo Đông phương—đã xin hiệp thông với Rôma. Vì thế, ngày nay có nhiều Giáo hội “Công giáo Đông phương”, phần lớn có nguồn gốc Đông Âu và Trung Đông. Nhiều người Công giáo mặc nhiên cho rằng các giáo hội trên thế giới vận hành giống hệt giáo hội “quê nhà”: cùng luật, cùng phụng vụ. Thực ra, Công giáo luôn có nhiều phong tục, nguyên tắc luật pháp và hình thức phụng vụ đa dạng. Suốt nhiều thế kỷ, hàng lãnh đạo nỗ lực thống nhất luật lệ và thực hành, và phần lớn đã đạt được.
Một số thực hành chỉ còn trong văn bản lịch sử (như nghi lễ Gallican ở Pháp, Celtic ở Ireland); vài nghi lễ khác vẫn tồn tại hạn chế ở Tây Âu (như nghi lễ Ambrosian ở Milan). Tất cả giáo sĩ cử hành các nghi lễ này vẫn sống theo Giáo luật Rôma—tức giữ luật độc thân.
Nhiều tín hữu hiệp thông trọn vẹn với Rôma lại dùng các bộ Giáo luật khác và phụng vụ rất khác. Hiện có khoảng sáu hồng y thuộc nghi lễ ngoài Latinh, đứng đầu các Giáo hội Công giáo Đông phương; một số đồng thời là hồng y cử tri.
Các cộng đoàn “trông rất khác” và “lễ nghi có vẻ Đông phương” ấy đã trở thành thành phần của Giáo hội dưới quyền giáo hoàng bằng cách nào? Công giáo và Chính Thống tách rẽ thế kỷ XI, suýt tái hiệp nhất vào các năm 1274 và 1439. Ngay từ thế kỷ XII, đã có nhóm trở về Rôma và được trao quyền tự trị rộng rãi về luật và phụng vụ. Ngoài nhánh Chính Thống, các truyền thống khác cũng tìm hiệp thông với Rôma: Coptic (Ai Cập), Armenia, Ethiopia, và “Nestôriô”—các nhóm vốn tách khỏi Giáo hội Latinh từ thế kỷ V. Tất cả các hình thức Công giáo này có cội rễ Đông Âu, châu Phi, Trung Đông và Ấn Độ; do đó, cho đến gần đây, người Công giáo Tây phương ít biết đến.
Dù rất đa dạng, có thể nêu vài điểm chung: linh mục thường không buộc sống độc thân (dù khá phổ biến), còn giám mục thì buộc; phẩm phục và nghi thức gần với Chính Thống hơn là Latinh; kiến trúc–trang trí giống các nhà thờ Chính Thống; thường cho rước lễ dưới hai hình và đã thế ngay trước khi Công đồng Vatican II mở rộng thực hành này cho giáo dân Latinh; bánh lễ và cách rước lễ khác với Latinh (chẳng hạn cách rước kiệu Mình Thánh ở Ethiopia có thể làm tín hữu Latinh ngạc nhiên). Dòng tu Đông phương hoặc điều chỉnh theo luật Tây phương (như Biển Đức), hoặc theo truyền thống Basilian của Chính Thống. Ở những nơi như Hoa Kỳ—nơi giáo phận Latinh bao phủ toàn quốc—các Giáo hội Đông phương đặt dưới quyền các giám mục nghi lễ tương ứng, nhiều vị có chính tòa riêng.
Lược qua năm nhóm nghi lễ ngoài Latinh chính: lớn nhất là nghi lễ Byzantin với 14 phân nhóm (Melkite, Ruthenian, Ukraina, Romania… chủ yếu ở Đông Âu). Phần lớn hiệp nhất với Rôma trong thế kỷ XVI–XIX; vài nhóm trong thế kỷ XX; cũng có nhóm chưa bao giờ tách rời. Nghi lễ Antiôkhia có nhiều nhánh, trung tâm ở Syria; hiệp thông với Rôma từ sớm nhất 1182 đến muộn nhất 1930. Nghi lễ Chanđê (tách ra từ “Nestôriô”), trung tâm ở Iraq và có tín hữu tại Ấn Độ; hiệp nhất cuối thế kỷ XVI; những năm gần đây cộng đoàn Chanđê Iraq chịu bách hại dữ dội. Nghi lễ Armenia không phân nhánh; trung tâm nay ở Syria hơn là Armenia. Nghi lễ Copt có hai phân nhánh—Ai Cập và Ethiopia; hai cuộc hiệp nhất diễn ra riêng rẽ, dù cho đến thế kỷ XX, Chính Thống Ethiopia vẫn nhận thượng phụ từ Giáo hội Copt.
Đa số tín hữu Công giáo ngoài Latinh sống ở Đông Âu hoặc Trung Đông: nhóm trước chịu bách hại nặng nề dưới ách Xô Viết và nay còn phục hồi; nhóm sau sống kiếp thiểu số trong các quốc gia Hồi giáo và đôi khi đối diện hiểm nguy nghiêm trọng.
Các Giáo hội Công giáo Đông phương không phải chỉ là “hiếu cổ”. Lịch sử của họ là phần không thể tách rời của lịch sử Công giáo. Họ nhắc nhở sống động rằng Giáo hội Rôma không chỉ là sản phẩm của văn hóa Tây phương, mà bao hàm một phổ rộng các văn hóa, phụng vụ, luật lệ và thực hành Kitô giáo. Không có họ, theo nghĩa đen, Giáo hội Rôma sẽ “kém Công giáo” (ít tính phổ quát) hơn.
👉 (đọc tiếp các chương tiếp theo tại đây)
Chưa có Đánh giá/Bình luận nào được đăng.
Hãy trở thành người đầu tiên đóng góp nội dung cho Bài viết này.