Skip to content
Main Banner

Giáo hội hướng về thế giới

BTT HOCVIEN OFMVN
2025-10-22 07:27 UTC+7 27

LƯỢC SỬ GIÁO HỘI CÔNG GIÁO

Joseph Tân Nguyễn, ofm biên soạn


I. SỰ THÀNH HÌNH CỦA GIÁO HỘI SƠ KHAI

II. GIAI ĐOẠN PHÁT TRIỂN ĐẦU TIÊN

III. TRANH CHẤP GIỮA GIÁO QUYỀN & THẾ QUYỀN

IV. ĐỈNH CAO CỦA GIÁO HỘI TRUNG CỔ

V. GIÁO HỘI CHIA RẼ VÀ CẢI CÁCH

VI. GIÁO HỘI TRƯỚC CÁC THỬ THÁCH MỚI

VII. GIÁO HỘI HƯỚNG VỀ THẾ GIỚI


VII. GIÁO HỘI HƯỚNG VỀ THẾ GIỚI

Công đồng Vatican II

Khi Hồng y Roncalli được bầu làm Giáo hoàng Gioan XXIII năm 1958 ở tuổi 78, nhiều người xem ngài chỉ là “giáo hoàng tạm thời”. Thế nhưng chỉ trong 5 năm trị vì, ngài đã khởi xướng một cuộc cách mạng. Với người Công giáo, Vatican II là công đồng đại kết thứ 21. Bốn công đồng đầu—Nixêa, Constantinopolis, Êphêsô và Calcedonia—định tín các giáo lý cốt yếu về tương quan giữa Chúa Cha và Chúa Con, Ba Ngôi, và ngôi vị của Đức Kitô. Bốn công đồng khác nhóm tại Đông phương trong các thế kỷ VI–IX cũng được Rôma nhìn nhận. Giáo hoàng không triệu tập cũng không dự các công đồng ấy. Thời Trung cổ, nhiều công đồng do các giáo hoàng khác nhau triệu tập, thường để giải quyết những vấn đề cụ thể. Công đồng Trentô được triệu để đối phó Phong trào Cải cách Tin Lành và tiến hành các cải tổ quan trọng. Năm 1869, Piô IX nhóm Vatican I (về sau gọi như thế) để định tín giáo lý bất khả ngộ của giáo hoàng.

Giai đoạn bắt đầu từ Cách mạng Pháp và kết thúc với cái chết của Piô XII (1958) đôi khi được các sử gia Giáo hội gọi là “Thế kỷ XIX dài”. Quả thật, Giáo hội đối mặt thách thức phi thường từ cả quân đội lẫn ý thức hệ của Cách mạng Pháp. Nói chung đây là thời kỳ bảo thủ, thậm chí có người gọi là phản động. Lêô XIII, Piô X và Piô XII có những đóng góp quan trọng cho sự phát triển của Giáo hội; tuy vậy, các giáo hoàng sau Piô IX phần lớn vẫn vận hành trong khuôn khổ mô hình của ngài.

Ngày 28/10/1958, Mật nghị Hồng y bầu Angelo Roncalli, Thượng phụ Venezia, làm giáo hoàng lấy hiệu Gioan XXIII. Không như vị tiền nhiệm, Roncalli xuất thân nông dân. Ngài từng là nhà ngoại giao Tòa Thánh và là mục tử. Ở tuổi 78, nhiều người nghĩ ngài chỉ “giữ ghế”.

luoc-lich-su-giao-hoi23-1761092645.png

Chưa đầy ba tháng sau khi đắc cử, Gioan XXIII triệu tập một công đồng—công đồng đầu tiên sau gần 90 năm và thứ hai trong 400 năm. Thông báo khiến hầu như ai nấy đều bất ngờ. Có người cho rằng sẽ không bao giờ còn công đồng nữa vì bất khả ngộ đã khiến chúng trở nên không cần thiết. Có người đoán Gioan XXIII tái nhóm Vatican I vì công đồng ấy chưa bế mạc chính thức. Trong thông báo, ngài mời gọi các “anh em ly khai”—tức Kitô hữu không thuộc Công giáo Rôma. Chừng sáu tháng sau, ngài minh định ý định khi đặt tên công đồng sắp tới là Vatican II.

Công đồng khai mạc mùa thu 1962 và họp mỗi mùa thu cho đến phiên cuối năm 1965. Thành phần chủ chốt là gần 3.000 giám mục Công giáo cùng các cố vấn thần học, t rong đó có một thần học gia trẻ tên Joseph Ratzinger. Từ 1959 đến 1963, giáo hoàng xin các giám mục góp ý và lập các ủy ban chuẩn bị chương trình nghị sự và dự thảo văn kiện để thảo luận. Dưới một nửa số giám mục tham dự đến từ các tòa châu Âu. Các Giáo hội Công giáo Đông phương tham gia đầy đủ; Đức Thượng phụ Maximos IV Saigh (Melkite) giữ vai trò nổi bật.

Cần lưu ý những diễn biến trong Giáo hội và thế giới trước thềm công đồng. Nhiều người Công giáo băn khoăn về sự thụ động của giáo dân trong Thánh lễ do tiếp tục dùng tiếng Latinh. Nhiều giám mục theo đuổi các trào lưu thần học và quan tâm đến học thuật Kinh Thánh hiện đại. Hàng triệu người Công giáo bị kẹt sau Bức màn Sắt ở Ba Lan, Hungari… Cuộc chạy đua vũ trang giữa NATO và Hiệp ước Vác-sa-va đang tiếp diễn. Các nước châu Âu vừa trao trả độc lập cho thuộc địa châu Phi. Giữa hai kỳ họp đầu, Gioan XXIII qua đời và được Phaolô VI kế vị.

Trong các khóa họp có nhiều tranh luận sôi nổi, đôi lúc gay gắt. Có hai khối chính: phe phản đối thay đổi lớn và phe cổ xúy đổi mới. Gioan XXIII đã “ra bài” khi kêu gọi Giáo hội biết đọc “các dấu chỉ thời đại” (Mt 16,3). Dù khác biệt, đa số tham dự muốn theo lời khuyên ấy. Những người bất đồng kịch liệt nhất rốt cuộc ly khai, do Tổng giám mục người Pháp Marcel Lefebvre dẫn đầu. Phaolô VI in dấu ấn riêng lên công đồng: rút chủ đề ngừa thai nhân tạo khỏi nghị trình và gặp Thượng phụ Đại kết Athenagoras.

Các sắc lệnh chính thức của Vatican II dày khoảng 300 trang—nhiều hơn hẳn mọi công đồng trước. Hình thức và giọng điệu cũng khác: không lên án mà khẳng định và minh giải; ít chất pháp lý. Cải tổ đầu tiên và có lẽ dễ nhất là cho phép cử hành phụng vụ bằng tiếng bản ngữ; bàn thờ cũng quay để linh mục đối diện cộng đoàn khi cử lễ. Công đồng khẳng định mạnh mẽ tự do tôn giáo và tự do lương tâm. Có ý hướng nêu bật sự đa dạng thực hành trong Giáo hội, nhấn mạnh các dị biệt địa phương và vùng miền. Công đồng làm việc mà giáo hoàng không trực tiếp chủ tọa, cũng không áp đặt chương trình hay giới hạn thảo luận.

Một loạt đổi mới xoay quanh phong trào “trở về nguồn” (ressourcement):
• Giáo hội giảm bớt sự lệ thuộc—bị cho là quá mức—vào thần học Tôma.
• Giáo hội và mỗi tín hữu được mời gọi đọc Kinh Thánh cách kỹ lưỡng với các công cụ phân tích hiện đại.

• Các dòng tu được khuyến khích trở về linh đạo khai sáng của mình.

Giáo hội nhận ra mình phải hướng về quá khứ (các nguồn), hiện tại (dấu chỉ thời đại) và tương lai.

Giáo hội Công giáo nhìn ra bên ngoài

Vatican II mở đường cho người Công giáo đối thoại với các Kitô hữu khác và với tín đồ các tôn giáo khác. Mỗi khi Giáo hội gặp thách thức từ chính nội bộ, xu hướng thường là “khoanh vùng ranh giới”. Có thể hiểu sự rạn nứt Đông–Tây khởi đi từ Constantinopolis năm 1054 theo cách ấy. Chắc chắn, Tòa án Dị giáo và cuộc Thập tự chống Cathar cũng thuộc dạng này; việc thiêu sống Jan Hus và các cuộc Thập tự chống Hussite ở thế kỷ XV cũng vậy. Rõ rệt nhất là thời Cải cách: nói không ngoa, ngay cả đến thế kỷ XX, người Công giáo thường “lập chiến lũy” khi đối diện Kitô hữu bất đồng.

Trước khi nói về các sắc lệnh đại kết của Vatican II, cần nhắc đến Vatican II và các Giáo hội Công giáo Đông phương. Các Giáo hội Đông phương có vị thế đáng kể tại Vatican II. Một “quả bom” của công đồng là cuộc gặp—và sau đó là tuyên bố chung—giữa giáo hoàng và thượng phụ. Dù chưa phục hồi hiệp thông trọn vẹn Đông–Tây, đó là nền tảng cho đối thoại hiệu quả. Công đồng cũng mở lối cho đối thoại giữa Rôma với các Giáo hội Chính Thống Syria Jacobite, Copt, Ethiopia và Armenia.

Quan hệ giữa Rôma và các cộng đồng Tin Lành vừa gần gũi hơn với đa số người Công giáo, vừa phức tạp hơn so với quan hệ với các Giáo hội Đông phương. Trước Vatican II, người Công giáo được dạy không được bước vào nhà thờ Tin Lành, kể cả dự đám cưới hay tang lễ. Nhiều người Tin Lành nhớ đã từng bị người Công giáo—thậm chí giáo sĩ—nói rằng họ sẽ xuống hỏa ngục vì “ngoài Giáo hội không có ơn cứu độ”. Khi phong trào đại kết khởi phát ở phương Tây, Giáo hội Công giáo đã không chính thức tham gia.

Ngôn ngữ của Vatican II về đại kết báo hiệu một ngày mới. Người Tin Lành được gọi là “anh em ly khai”. Nhấn mạnh bí tích Rửa tội như nghi thức cốt yếu để được tháp nhập vào Đức Kitô, công đồng khởi đi từ điểm hợp nhất. Vatican II mở ra đối thoại và các buổi cầu nguyện đại kết. Công đồng dạy thần học và lịch sử phải được trình bày theo quan điểm đại kết để phù hợp sự thật.

Công đồng mô tả một số rào cản chính giữa Công giáo và Tin Lành: khác biệt về quan niệm Giáo hội và vai trò của Đức Maria trong ơn cứu độ; Tin Lành nặng nề hơn vào Kinh Thánh; không có bí tích Truyền chức trong các hệ phái Tin Lành—trở ngại cho hiểu biết chung về Thánh Thể. Công đồng cũng cảnh báo người Công giáo tránh “nhiệt thành phù phiếm hay thiếu thận trọng” có thể phát sinh từ quan hệ thân thiện hơn.

Vatican II khởi đầu nhiều tương quan đại kết phong phú với các cộng đồng Tin Lành. Năm 1966, Phaolô VI và Tổng giám mục Canterbury Michael Ramsey ra tuyên bố hợp tác. Năm 1999, Tuyên bố Chung về Giáo lý Công chính hóa giữa Rôma và Luther được công bố.

Vatican II cũng tiến một bước trong việc xác định cách liên hệ với người không Kitô giáo. Quan trọng nhất là những phát biểu mới về người Do Thái và Do Thái giáo: công đồng dứt khoát bác bỏ việc bách hại người Do Thái và tuyên bố sai lầm khi quy tội tập thể người Do Thái về cái chết của Đức Giêsu. Vatican II bày tỏ sự trân trọng cao đối với người Hồi giáo, mở đường cho lời xin lỗi sau này của Gioan Phaolô II về các cuộc Thập tự chinh. Công đồng cũng nói tích cực về Ấn giáo và Phật giáo, “khước từ không điều gì là chân thật và thánh thiện” trong các tôn giáo này.

Bước đi ngoạn mục nhất của Rôma hướng đến các tôn giáo khác là hai ngày cầu nguyện tại Assisi, quy tụ các lãnh đạo của nhiều truyền thống Kitô giáo và ngoài Kitô giáo. Lần đầu diễn ra năm 1986 trong Ngày Thế giới Cầu nguyện cho Hòa bình, có mặt Giáo hoàng Gioan Phaolô II và đại diện nhiều tôn giáo, bao gồm Tổng giám mục Canterbury và Đức Đạt Lai Lạt Ma. Năm 2002, giáo hoàng mời Kitô hữu và người Hồi giáo cầu nguyện chung cho hòa bình trước thảm kịch 11/9.

Những thách thức từ Nouvelle Théologie

Nhịp thay đổi nhanh nửa sau thế kỷ XX và tinh thần cởi mở của Vatican II dẫn tới sự hình thành các nền thần học mới—với một số người là đáng ngờ. Có lẽ gây tranh cãi nhất là thần học giải phóng. Việc xuất hiện các thần học mới trong thời hiện đại không hề lạ lùng. Ngay thời Giáo hội sơ khai đã có nhiều lối thần học khác nhau (và hẳn còn những điều ta không biết). Những thần học gia lớn thường mặc định là nói những điều mới mẻ về các bản văn và vấn đề cũ. Trí tuệ luôn có căng thẳng, đôi khi thêm mắm muối bởi “ghen tị học thuật” giữa các lập trường. Anselm, Abelard và Tôma Aquinô đều từng bị tác giả Công giáo khác và cả phẩm trật chất vấn—thế nhưng thần học của Aquinô đến mức nào đó đã trở thành “thần học của Giáo hội” nhờ Đức Lêô XIII.

Vatican II cố tái lập cân bằng trong đào tạo thần học tại các chủng viện, giảm bớt sự thống trị của Aquinô. Xuyên suốt lịch sử, nhiều trước tác thần học Công giáo không dựa vào hay không đồng ý với Tôma. Một vấn đề của Tôma học là quan niệm về nhân vị và khoa học (chỉ kể hai ví dụ) ít hợp “hệ quy chiếu” của người thời nay.

Nouvelle théologie phát triển chủ yếu nơi các thần học gia Pháp và Đức, có ảnh hưởng lớn tại Vatican II. Piô XII từng phê phán phương pháp của trào lưu này, đặc biệt trong cách hiểu Cựu Ước. Nói chung, các nhà nouvelle bác bỏ quan điểm Công giáo đang thắng thế rằng “hiện đại tính” tự thân là sai lạc, và bác bỏ thái độ phòng thủ trước người ngoài Công giáo. Ressourcement—trở về các nguồn Công giáo sơ khai—là một chủ đề lớn. Trong nội bộ nouvelle hình thành phân hóa giữa nhóm cấp tiến và nhóm thận trọng—nhóm sau về sau bao gồm cả Giáo hoàng Bênêđictô XVI.

Những thần học thách thức truyền thống không chỉ giới hạn ở nouvelle, cũng không chỉ ở Âu–Mỹ. Giáo hội là định chế hoàn vũ, không chỉ Tây phương. Dưới một nửa giám mục Vatican II đến từ châu Âu. Ngày nay, châu lục có số người Công giáo lớn nhất là Nam Mỹ. Năm 2009, trong 193 hồng y chỉ 44 là người Ý và chưa đến một nửa là châu Âu; cái gọi là “Thế giới thứ ba” có 67 hồng y.

Với sự thế tục hóa ở châu Âu và tăng trưởng Công giáo ở “phương Nam toàn cầu”, rất nhiều thần học mới đến từ các vùng đang lớn mạnh này. Một số nước kém phát triển giống bối cảnh Kinh Thánh hơn Âu–Mỹ, nhờ đó có thể cung cấp những cách đọc khác biệt và quý giá về Kinh Thánh và cuộc đời Đức Giêsu.

luoc-lich-su-giao-hoi24-1761092726.png

Nhiều Kitô hữu phương Nam sống thiểu số giữa người Hồi giáo, Ấn giáo và các tôn giáo khác. Họ đem đến những cái nhìn giá trị từ các nền văn hóa nơi Kitô giáo không “ăn sâu vào văn hóa” hay gắn với quyền lực. Thường vì hoàn cảnh, họ đối thoại liên tôn hằng ngày và có điều để dạy những ai sống trong bối cảnh đa số Kitô giáo.

Giờ hãy tập trung vào thần học giải phóng và cách nó được đón nhận tại hoàn vũ và ở Vatican. Hội đồng Giám mục châu Mỹ Latinh nhóm tại Medellín (Colombia) đã tuyên bố “ưu tiên chọn lựa dành cho người nghèo”. Năm 1972, linh mục Peru Gustavo Gutiérrez xuất bản A Theology of Liberation, trở thành văn bản nền tảng của thần học giải phóng. Thần học này đa dạng trong thực hành khắp Mỹ Latinh và thế giới. Nó sinh ra từ lòng trắc ẩn đích thực (theo nghĩa gốc: “cùng chịu đau”) với người nghèo. Thay vì chỉ cải tổ hệ thống hiện hữu, nó cổ vũ người nghèo liên đới nhau để được giải phóng khỏi các cơ cấu áp bức và tội lỗi. Dù có chỗ cho việc học hỏi theo lăng kính giải phóng, đây là một thần học của hành động.

Các thần học gia giải phóng nhấn mạnh trực giáo (orthodoxy) phải đi cùng trực hành (orthopraxis): dạy đúng cần song hành với làm đúng. Điều gây tranh cãi nhất là việc vận dụng các ý tưởng Marxist. Họ đọc Kinh Thánh từ viễn tượng người nghèo và bị áp bức, xem Kinh Thánh là chỉ nam cho hành động. Thần học này lập luận rằng hình thức đức tin đích thực là bác ái ở tầm vĩ mô, không chỉ bác ái cá nhân. Theo những người ủng hộ, đây không phải là mô hình tuyệt đối cho mọi thời, nhưng là tiếng đáp trước hoàn cảnh của người nghèo; họ cảnh báo việc tuyệt đối hóa thần học giải phóng—hay bất cứ thần học nào.

Ở Vatican, thần học giải phóng không được đón chào. Có nỗi lo nó dẫn đến cách mạng bạo lực—điều Đức Giêsu không chủ trương. Có quan ngại “phong trào từ bên dưới” này sẽ không tuân phục phẩm trật. Nhiều người phản đối việc chính trị hóa Giáo hội và bác bỏ ý tưởng xem Đức Giêsu như nhà cách mạng chính trị. Nhiều người trong Giáo hội cũng không chấp nhận một thần học, dù chỉ phần nào, dựa trên Marx.

Joseph Ratzinger (sau này là Giáo hoàng Bênêđictô XVI), với tư cách Tổng trưởng Bộ Giáo lý Đức tin, trở thành người phê bình tích cực nhất thần học giải phóng tại Vatican. Ngày nay, thần học giải phóng ở Mỹ Latinh không còn sôi động như 30 năm trước, nhưng vẫn là lực lượng đáng kể.

Thần học giải phóng đã vượt xa Mỹ Latinh và vượt khỏi biên giới Công giáo. Dù có các thần học gia Công giáo theo hướng giải phóng ở những nơi như Sri Lanka, nhìn chung nó không trở thành “vấn đề” nghiêm trọng với Vatican ở các nơi khác. Nhiều nhóm Công giáo và ngoài Công giáo trong hoàn cảnh bị áp bức—phụ nữ, người đồng tính, người Mỹ gốc Phi và những nhóm khác ở Hoa Kỳ—đã phát triển các thần học chịu ảnh hưởng sâu đậm từ Gutiérrez và các thần học gia Mỹ Latinh.

Đức Gioan Phaolô II và Giáo hội trong thế kỷ XXI

Việc một hồng y Ba Lan được bầu làm Giáo hoàng Gioan Phaolô II gây bất ngờ cho đa số người Công giáo. Ngài trị vì lâu hơn hầu hết các vị tiền nhiệm (chỉ thua hai vị) và có một triều đại thuộc loại quan trọng nhất trong gần 2.000 năm lịch sử chức vị này. Có lẽ cuộc bầu giáo hoàng quan trọng bậc nhất diễn ra năm 1978 khi Hồng y Karol Wojtyła trở thành Gioan Phaolô II. Phaolô VI trị vì 15 năm, 13 năm cuối chủ yếu thi hành các cải tổ Vatican II—thường không làm vừa lòng cả phe truyền thống lẫn tiến bộ. Ngài thiếu sức hút của vị tiền nhiệm và đôi lúc tỏ ra cứng và dè dặt. Kế đó là việc bầu vị Thượng phụ Venezia hầu như vô danh làm Gioan Phaolô I, nhưng ngài qua đời chỉ sau 33 ngày.

luoc-lich-su-giao-hoi25-1761092758.png

Các hồng y lại khiến thế giới ngạc nhiên khi bầu Hồng y Karol Wojtyła, Tổng giám mục Krakow, làm Gioan Phaolô II. Từ giây phút đắc cử, rõ ràng ngài sẽ phá nhiều rào cản: vị giáo hoàng không phải người Ý đầu tiên sau 456 năm, trị vì gần 27 năm—triều đại dài thứ ba trong lịch sử.

Tóm lược đời sống trước khi đắc cử: Ngài lớn lên ở một thị trấn nhỏ, rồi chuyển đến Krakow—trung tâm văn hóa–tri thức—và học tại đại học danh tiếng. Sống sót qua thời Đức Quốc xã chiếm đóng Ba Lan, theo đuổi ơn gọi trong hoàn cảnh cực kỳ gian khổ. Vận động khỏe, là kịch tác gia, đậu hai bằng tiến sĩ. Đắc cử ở tuổi 58, ngài mang sức sống gần như tuổi trẻ khiến thế giới chú ý.

Triều đại Gioan Phaolô II có lẽ được biết nhất qua các chuyến tông du phi thường, trong đó ngài trực tiếp thấy sự đa dạng của Giáo hội; qua truyền thông hiện đại, thế giới thấy điều ngài thấy. Ngài ra khỏi Ý 104 lần, thăm 128 quốc gia—đối với đa số nước này, đó là chuyến thăm đầu tiên của một giáo hoàng đương nhiệm. Ngài đến Israel và nhiều quốc gia đa số Hồi giáo; về thăm Ba Lan 9 lần.

Cần thấy ngài là nhân vật công khai đến thế nào và thế giới “tưởng như” biết ngài ra sao. Tháng 5/1981, ngài bị tay súng Thổ Nhĩ Kỳ Mehmet Ali Ağca bắn trọng thương tại Quảng trường Thánh Phêrô. Dù hồi phục kỳ diệu, năm 1994 ngài gãy xương đùi và từ đó đi lại khó khăn; giữa thập niên 1990 xuất hiện triệu chứng Parkinson (Vatican phải vài năm mới xác nhận). Có lẽ hiếm ai trên đời có “hành trình đau đớn và lão hóa” công khai như thế; phẩm giá và can đảm của ngài được ngưỡng mộ vượt ngoài ranh giới Công giáo.

Vì trị vì lâu, Gioan Phaolô II định hình Giáo hội cho thế hệ sau cũng như thế hệ của mình. Trong mật nghị sau khi ngài qua đời, trừ hai vị (Ratzinger và Baum), mọi hồng y cử tri đều do ngài vinh thăng. Ngài bổ nhiệm hàng nghìn giám mục khắp nơi. Ngài đảo chiều xu hướng phân quyền khởi từ Gioan XXIII.

Ngài tiến những bước quan trọng trong đối thoại đại kết và liên tôn. Ngài đặc biệt quan tâm đối thoại với Chính Thống giáo Đông phương. Trong triều đại ngài, tài liệu Công giáo–Luther về “công chính hóa bởi đức tin” được công bố. Ngài giảng trong một nhà thờ Luther và tại chính tòa Canterbury của Anh giáo. Ngài là giáo hoàng đầu tiên từ thời cổ đại thăm hội đường Do Thái và đặt lời sám hối tại Bức tường Than khóc, xin Chúa thứ tha những lỗi lầm của Giáo hội với người Do Thái. Ngài thiết lập quan hệ ngoại giao đầy đủ đầu tiên giữa Tòa Thánh và Israel. Đức Đạt Lai Lạt Ma là khách thường xuyên của ngài. Ngài là giáo hoàng đầu tiên bước vào một đền thờ Hồi giáo và công khai hôn kính Kinh Qur’an. Ngài mời lãnh đạo các tôn giáo lớn trên thế giới về cầu nguyện chung.

Gioan Phaolô II khó xếp thuần nhất vào “truyền thống” hay “tiến bộ”. Ngài làm nhiều điều khiến phe tiến bộ hài lòng: đón các hồng y “thế giới đang phát triển” vào hàng ngũ, lên tiếng chống thái quá của chủ nghĩa tư bản và chiến tranh, đưa ra nhiều lời xin lỗi về tội lỗi của Giáo hội (không làm đủ để ngăn Holocaust, các cuộc Thập tự, cách đối xử với những người bất đồng…).

Mặt khác, nhiều lời nói và việc làm của ngài—lập trường mạnh mẽ chống ngừa thai nhân tạo, chống truyền chức cho phụ nữ, ủng hộ luật độc thân linh mục—lại củng cố phe thiên truyền thống. Trực tiếp hoặc qua Bộ Giáo lý Đức tin, ngài phê phán một số nhánh của thần học giải phóng và cấm linh mục giữ chức vụ công. Ngài sùng kính Đức Maria sâu xa và gán việc mình thoát chết sau vụ ám sát cho lời chuyển cầu của Đức Mẹ Fatima.

Ngài thực hiện nhiều cử chỉ sâu sắc khó quên: hai năm rưỡi sau vụ ám sát, ngài gặp kẻ bắn mình; cuộc gặp riêng, nhưng sau đó ngài nói đã tha thứ cho y. Ở Papua New Guinea, một phụ nữ trần ngực dâng lễ vật và được Đức Thánh Cha chào đón nồng hậu—biểu tượng cảm động rằng Giáo hội không bị bó buộc vào phong tục Tây phương. Năm Toàn xá 2000, dù hạn chế nghiêm trọng về thể lý, ngài vẫn lên đường; đó cũng là năm ngài đứng trước Bức tường Than khóc.

Những ngày cuối và cái chết của Gioan Phaolô II đưa hàng triệu người đổ về Rôma—có lẽ là cuộc hành hương Kitô giáo lớn nhất từng có. Đám đông hô “Santo subito!” (“Xin phong thánh ngay”) và giương biểu ngữ “Gioan Phaolô Cả”. Sau khi ngài qua đời, Hồng y Joseph Ratzinger được bầu làm Giáo hoàng Bênêđictô XVI—giáo hoàng người Đức đầu tiên gần 1.000 năm.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Cook and Herzman, The Medieval World View: An Introduction.  Oxford University Press, 3rd Edition, 2012.

Cragg, The Church and the Age of Reason. Published1990 by Penguin Books (first published January 1st, 1960).

Küng, The Catholic Church: A Short History. Random House Publishing Group, 2007.

McGinn, The Presence of God: A History of Western Mysticism. Crossroad, 1991.

Mullett, The Catholic Reformation. Routledge, New York, 1999.

👉 (đọc tiếp các chương tiếp theo tại đây)

Chia sẻ

Chưa có Đánh giá/Bình luận nào được đăng.

Hãy trở thành người đầu tiên đóng góp nội dung cho Bài viết này.