Sự hình thành của Giáo Hội sơ khai
LƯỢC SỬ GIÁO HỘI CÔNG GIÁO
Joseph Tân Nguyễn, ofm biên soạn
I. SỰ THÀNH HÌNH CỦA GIÁO HỘI SƠ KHAI
II. GIAI ĐOẠN PHÁT TRIỂN ĐẦU TIÊN
III. TRANH CHẤP GIỮA GIÁO QUYỀN & THẾ QUYỀN
IV. ĐỈNH CAO CỦA GIÁO HỘI TRUNG CỔ
V. GIÁO HỘI CHIA RẼ VÀ CẢI CÁCH
VI. GIÁO HỘI TRƯỚC CÁC THỬ THÁCH MỚI
VII. GIÁO HỘI HƯỚNG VỀ THẾ GIỚI
Giáo hội Công giáo Rôma có khoảng 2.000 năm truyền thống liên tục và thăng trầm. Khi nhìn vào thực tế Giáo hội ngày nay, nhiều giáo dân vẫn thắc mắc: Làm thế nào mà Giáo hội trở thành như ngày nay? Bằng cách nào các tín hữu có thể khẳng định mình là thành phần của một định chế duy nhất, thánh thiện, công giáo và tông truyền? Thật khác biệt nếu chúng ta so sánh Giáo hội hiện tại với thời các cộng đoàn “hội thánh tại gia” thế kỷ I, hay Giáo hội đầy quyền lực chính trị thời Trung cổ, hay những cuộc cải đạo tập thể đôi khi bị ép buộc ở Tân Thế giới. Bất chấp những biến đổi sâu rộng, Giáo hội hôm nay vẫn phải đối diện với nhiều vấn đề từng kéo dài suốt hai thiên niên kỷ: bách hại, chia rẽ và tai tiếng.
Giáo hội là một cơ chế phức tạp. Giáo hội đã từng bị bách hại và có những giáo hoàng tử đạo, và cũng từng trở thành kẻ bách hại. Giáo hội có những thánh nhân ẩn sĩ sa mạc lẫn các nhà hoạt động xã hội, có người dốt nát và có người uyên bác, có người giàu sang và có người nghèo khó. Giáo hội có những vị tu sĩ hành khất, các chiến binh Thập Tự và các nhà thần bí, những người bảo thủ và những nhà cách mạng. Chúng ta sẽ có cơ hội nhắc đến các thánh nhân như Augustinô, Phanxicô, Catarina thành Siena, Ignatius Loyola, Piô IX, cũng như các hình thức cầu nguyện, quy luật đan tu cũng như những hành trình huyền nhiệm hay thần bí.
Bài này sẽ cố gắng tóm lược lịch sử Giáo hội một cách ngắn gọn qua bảy giai đoạn: (1) GIÁO HỘI SƠ KHAI; (2) GIAI ĐOẠN PHÁT TRIỂN; (3) GIAI ĐOẠN CỦNG CỐ VỊ THẾ CỦA GIÁO QUYỀN; (4) ĐỈNH CAO CỦA GIÁO HỘI TRUNG CỔ; (5) GIÁO HỘI CHIA RẼ VÀ CẢI CÁCH; (6) GIÁO HỘI TRƯỚC CÁC THỪ THÁCH TÂN THỜI; (7) GIÁO HỘI HƯỚNG VỀ THẾ GIỚI. Qua các giai đoạn này, chúng ta sẽ nhận ra niềm tin cốt lõi của Giáo hội Công giáo là: những người đang sống hôm nay và những người đã qua đời từ lâu đều hiệp thông cách căn bản trong một “Giáo hội lữ hành trên trần thế”.
I. SỰ THÀNH HÌNH CỦA GIÁO HỘI SƠ KHAI
Đức Giêsu và sự ra đời của Giáo Hội
Một điều dễ nhận ra là: Giáo Hội ở thế hệ sau thời thi hành sứ vụ của Đức Giêsu khác rất xa so với Giáo Hội ngày nay. “Giáo hội” xuất phát từ tiếng Hy Lạp kyrios, nghĩa là “Chúa”, dịch từ Tân Ước ekklesia, nghĩa là “cộng đoàn/đại hội”, một thân thể những người quy tụ. Từ “Công giáo” (Catholic) đến từ tiếng Hy Lạp katholikos, nghĩa là “phổ quát”. Khi ghép lại và viết hoa, hai thuật ngữ này chỉ các thiết chế và tín lý cụ thể. Chúng ta sẽ tìm hiểu làm thế nào và vì sao giáo hội công giáo (phổ quát) đã trở thành “Giáo Hội Công giáo La Mã” (Roman Catholic Church).
Lịch sử Kitô giáo và lịch sử Giáo Hội bám rễ vững chắc trong Kinh Thánh Do Thái (Cựu Ước) và lịch sử dân Do Thái. Những hình ảnh thường gặp trong nghệ thuật và văn chương Kitô giáo--như con tàu của Nôê hay nhà Đavít--nhắc chúng ta Giáo Hội mang ơn thế nào với các tiền nhân Do Thái. Khoảng ba phần tư Kinh Thánh Kitô giáo được viết bằng tiếng Hípri trước khi Đức Kitô giáng sinh.
Tuy lịch sử Do Thái rất quan trọng đối với lịch sử Giáo Hội, chúng ta khởi đầu với chính con người Đức Kitô. Đức Giêsu Nazareth sinh ra vài năm trước năm thứ nhất của Kỷ nguyên Kitô giáo hay Công nguyên, kết quả của những sai số niên đại trong các thế kỷ Kitô giáo đầu. Dù Đức Giêsu phê phán nhiều khía cạnh của Do Thái giáo đương thời, Người vẫn là người Do Thái và không tách khỏi Do Thái giáo để lập một tôn giáo hay một hệ thống thể chế mới. Tuy nhiên, Đức Giêsu gọi Phêrô là tảng đá và tuyên bố: “Trên tảng đá này Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy” (Mt 16). Giữa các học giả Kinh Thánh có nhiều tranh luận về việc Đức Giêsu có chủ ý lập một tôn giáo mới hay không, hoặc thậm chí liệu Người có tin rằng mình đến để công bố Thời Cánh Chung.
Các học giả tiếp tục gỡ rối những “sợi chỉ” trong bốn Sách Tin Mừng. Chúng rõ ràng chứa đựng các dữ kiện lịch sử về đời sống và sứ vụ của Đức Giêsu Nazareth. Mỗi Tin Mừng được viết cho một cộng đoàn Kitô hữu cụ thể và ít nhiều phản ánh truyền thống và thực hành riêng của cộng đoàn ấy. Các Tin Mừng cũng phản ánh quan điểm của các tác giả cũng như hoàn cảnh của các Kitô hữu vào thời biên soạn. Các Tin Mừng có lẽ được viết trong khoảng từ năm 65 đến 95 CN; dù tác giả có tranh luận, nhiều học giả cho rằng không có Tin Mừng nào do người chứng kiến trực tiếp soạn. Dẫu vậy, đức tin Kitô hữu không phụ thuộc vào việc “khôi phục” Đức Giêsu lịch sử.
Điều quan trọng không kém là đọc mỗi Tin Mừng như một trình bày về đời sống, sứ vụ và ý nghĩa của Đức Giêsu, tập trung vào điều văn bản hiện có, hơn là cố gắng tháo gỡ mọi sợi chỉ mà tác giả đã dệt. Học giả Kinh Thánh thế kỷ XX Raymond Brown lưu ý: khi Giáo Hội sơ khai chấp nhận tính quy điển (tính “kinh điển”) của các Tin Mừng Tân Ước, Giáo Hội đã chấp nhận sống với những căng thẳng giữa chúng. Các “tin mừng khác” (mạo thư) cho thấy sự đa dạng của Kitô giáo trong các thế kỷ sau khi kết thúc sứ vụ trần thế của Đức Giêsu, chúng hầu như không cho biết gì về đời sống của Đức Giêsu và các tông đồ.
Cả bốn Tin Mừng trong Tân Ước đều kể chuyện bữa tiệc ly. Tuy nhiên, nếu đọc cả bốn phiên bản, ta sẽ thấy thực ra có nhiều mô-típ truyện khác nhau. Dù Đức Giêsu không thiết lập Giáo Hội Công giáo như một thiết chế tách biệt khỏi Do Thái giáo, các Tin Mừng lại thuật những biến cố và thực hành mà Đức Giêsu tham dự—về sau trở thành trung tâm trong sự hình thành Giáo Hội. Rõ ràng Đức Giêsu liên hệ với Gioan Tẩy giả và thực hành phép rửa. Người dùng bữa cuối với các môn đệ trước khi bị bắt và chịu đóng đinh—một bữa ăn sau đó được các môn đệ cử hành lại.
Những mầu nhiệm lớn về Đức Giêsu trình bày trong các Tin Mừng trở thành nền tảng cho niềm tin và phụng tự Kitô giáo. Mầu nhiệm Nhập Thể—Thiên Chúa làm người nơi Đức Giêsu—được nêu ngay đầu Tin Mừng Gioan và đặc biệt được kính nhớ trong lễ Giáng Sinh. Cuộc Khổ nạn—tưởng niệm vào thứ Sáu Tuần Thánh—có nghĩa là Đức Giêsu đền thay tội trần gian qua cái chết vô tội của Người. Phục Sinh—Đức Giêsu thắng vượt sự chết và đang sống—được công bố trong tất cả các Tin Mừng và đặc biệt mừng vào lễ Phục Sinh.
Các cơ cấu giáo hội tiên khởi
Phaolô kỳ vọng Đức Kitô sớm trở lại, và các tông đồ là những nhà lãnh đạo tự nhiên của các cộng đoàn sơ khai. Nhưng Đức Kitô đã không trở lại ngay, và các tông đồ lần lượt qua đời. Các Kitô hữu đầu tiên—dưới ảnh hưởng Phaolô—đáp lại các thực tại và thách đố mới nảy sinh, kể cả vị thế của dân ngoại trong cộng đoàn. Cũng có những thiết chế Kitô giáo đầu tiên xuất hiện để mang lại trật tự và định hướng cho đời sống Kitô hữu sơ khai. Không có một hệ thống thiết chế nào dành cho môn đệ Đức Giêsu xuất hiện ngay trong những năm đầu sau khi kết thúc sứ vụ trần thế của Người. Rõ trong vài thư của Phaolô có cho rằng Đức Kitô sắp trở lại và thế gian như ta biết sẽ kết thúc. Nếu sách Công vụ là chính xác, sau khi Đức Giêsu thăng thiên có khoảng 120 môn đệ—tất cả đều là người Do Thái ở Giêrusalem—nên ít cần đến tổ chức chính thức. Theo Công vụ, tình hình thay đổi khi Chúa Thánh Thần ngự xuống trong ngày Lễ Ngũ Tuần—đôi khi được gọi là “sinh nhật” của Giáo Hội—và có 3.000 người trở lại.
Chẳng bao lâu, ta thấy sự phức tạp lớn hơn trong Giáo Hội mới chớm hình, kéo theo tranh luận và nhu cầu phân công nhiệm vụ cụ thể. Công Vụ gợi ý—có lẽ với chút lý tưởng hóa—rằng cộng đoàn Kitô hữu đầu tiên ở Giêrusalem sống hiệp thông của cải. Sách cũng kể có xung đột giữa các tín hữu Do Thái nói tiếng Hy Lạp (đã Hylạp hóa) và những người không nói tiếng Hy Lạp. Tranh chấp này dẫn tới việc đặt tay cho bảy người lo phần phân phát lương thực, để các tông đồ chuyên tâm “phụng sự Lời”, khởi điểm của sự chuyên biệt hóa. Tranh cãi lớn nhất của Giáo Hội sơ khai là: người ngoại có thể là thành phần trọn vẹn của cộng đoàn (lập trường của Phaolô và cộng sự) hay họ phải chịu cắt bì và tuân giữ Luật Môsê trước.
Người ta thường quả quyết rằng Phaolô mới là người sáng lập thực sự của Giáo Hội. Phaolô là một nhà truyền giáo lưu động, nhưng không phải duy nhất. Ngài rao giảng Tin Mừng theo cung cách riêng, lập các cộng đoàn hỗn hợp giữa người Do Thái và người ngoại, thiết lập vài cấu trúc sơ khai, rồi lại tiếp tục lên đường. Khi một cộng đoàn do Phaolô lập nảy sinh tranh chấp, họ viết thư hỏi ngài. Các thư ấy là những tài liệu Kitô giáo sớm nhất. Một số thư mang tên Phaolô trong Tân Ước có thể do môn đệ viết một thế hệ sau, như Êphêsô và 1Timôthê. Dù một người chép tay viết thư, Phaolô thường tự tay viết vài dòng ở cuối. Lời chào ở đầu và cuối một số thư cho ta những thoáng nhìn quan trọng về thành phần và ban lãnh đạo của các “hội thánh gia đình” sơ khai; nhờ đó, ta biết được nhiều tên tuổi mà nếu không đã thất truyền.
Trong 1 Cr, ta có lẽ cái nhìn rõ nhất về những thách đố các cộng đoàn mới phải đối diện. Phaolô quan tâm tới chia rẽ; ngài nhắc tới những nhà giảng thuyết lưu động khác công bố các phiên bản Tin Mừng hơi khác. Nhiều vấn đề luân lý được bàn đến, như trường hợp một người sống với mẹ kế. Phaolô bực vì các tín hữu đem tranh chấp ra tòa dân ngoại (La Mã) phân xử. Có những bận tâm về việc xếp hạng các đặc sủng, cũng như về việc ngôn sứ và nói tiếng lạ. Phaolô khó chịu vì các phân biệt xã hội trong cộng đoàn dẫn tới ưu đãi người giàu. Êphêsô và 1Timôthê—như đã nói, có lẽ được soạn sau khi Phaolô qua đời--cho thấy mức thể chế hóa tiến bộ hơn trong các cộng đoàn. Êphêsô xác lập một loạt quy tắc gia đình cho Kitô hữu, bàn về vai trò chồng, vợ, con cái và nô lệ.
Các “Giáo Hội” trong Công vụ và trong thư Phaolô đã thay đổi và phát triển trong những thập niên sau khi kết thúc sứ vụ trần thế của Đức Giêsu; tuy vậy, vài vấn đề chủ chốt vẫn chưa được giải quyết: từng cộng đoàn sẽ tổ chức ra sao? Ai sẽ chịu trách nhiệm, nhất là sau khi các tông đồ qua đời? Giáo Hội có tiếp tục gồm cả người Do Thái thực hành và người ngoại không?
Sự đa dạng trong cộng đoàn Kitô hữu
Các lịch sử Kitô giáo viết vào thế kỷ IV–V thuật lại sự tăng trưởng của Giáo Hội và ghi nhận các cuộc chiến chống lại những hình thức lệch lạc của đức tin. Nhưng các tài liệu mới được khám phá cho thấy trong Kitô giáo sơ kỳ có sự đa dạng và đa nguyên tư tưởng nhiều hơn người ta từng hình dung. Một quan niệm phổ biến về sự phát triển của Giáo Hội thường như sau: luôn có một “chân lý” chính thống mà các Kitô hữu chân chính hằng tin nhận. Thỉnh thoảng có những cá nhân hay nhóm từ chối các chân lý ấy--thường vì lý do lệch lạc--và rốt cuộc họ hoặc trở lại, hoặc bị đánh bại. Nhãn mác “dị giáo” được ném qua lại và sau cùng dán lên nhóm bị thua hoặc bị cô lập. Đây là quan điểm của sử gia Êusêbiô về các trước tác ở thế kỷ IV. Nhưng trong thực tế của các thế kỷ đầu Kitô, Tân Ước--đặc biệt thư Phaolô--chứa nhiều bằng chứng về những bất đồng nghiêm trọng giữa các Kitô hữu. Không có một đức tin thuần khiết, không pha tạp nào được thực hành phổ quát ngay thuở ban đầu.
Giáo Hội sơ khai khó lòng tránh khỏi tranh cãi và lúng túng. Chưa hề có Tân Ước—tức là chưa có một tập sách được chấp nhận phổ quát là quy điển và có thẩm quyền. Các Kitô hữu gốc Do Thái và gốc dân ngoại đến với Đức Giêsu từ những nhãn quan rất khác. Một số Kitô hữu dân ngoại đã được đào tạo trong triết học Hy Lạp và hiểu Tin Mừng theo phạm trù ấy. Liên lạc giữa các cộng đoàn lẻ tẻ; vài nơi hẳn bị cô lập. Có một khối lượng lớn văn chương Kitô giáo, nhiều “tin mừng”, thư từ, sách “công vụ”, trong đó có những tác phẩm đối chọi khá gay gắt với nhau. Hơn nữa, các cộng đoàn có những kiểu cơ cấu rất khác nhau và không có thẩm quyền nào được công nhận phổ quát.
Nhiều vấn đề mà ngày nay hầu như mọi Kitô hữu đồng ý đã từng là đề tài tranh luận ở Giáo Hội sơ khai. Việc hình thành một “quy điển” Kitô giáo là một tiến trình dài; địa vị và ý nghĩa của Kinh Thánh Do Thái cũng bị tranh cãi. Ở vài nơi, thần tính của Đức Kitô còn bị tranh luận cho tới tận thế kỷ VIII. Ý niệm Thiên Chúa Ba Ngôi là một ý tưởng đang hình thành; từ “Ba Ngôi” không xuất hiện trong Kinh Thánh. Hình ảnh “một Giám mục đứng đầu một giáo đoàn” không phát triển đồng đều mọi nơi. Kitô hữu là thiểu số trong Đế quốc Rôma, và thường bị bách hại. Bổn phận của Kitô hữu đối với nhà nước và cách đáp trả thích đáng trước bách hại là đề tài tranh luận.
Giai đoạn lịch sử này đến với chúng ta theo nhiều cách. Một số văn bản Kitô giáo sớm không thuộc quy điển vốn đã được biết từ lâu--bổ sung cho hiểu biết của ta về Giáo Hội sơ khai. Những phát hiện khảo cổ về các “tin mừng” trước đây chưa biết hoặc ít được biết cũng mở rộng tầm hiểu của ta về thời kỳ ấy. Dù không thể liệt kê trọn vẹn các niềm tin sơ kỳ, một vài mẫu tiêu biểu vẫn hữu ích. Nhóm Êbionit giữ nhiều tập tục Do Thái và xem Phaolô là kẻ thù của Kitô giáo chân chính. Họ tin Đức Giêsu là Con Thiên Chúa không phải sinh bởi Đức Trinh Nữ hay nhờ bản tính thần linh, mà do được “nghĩa tử” (adoptionism).
Cực đối lập với Êbionit là nhóm Maxion: họ hoàn toàn loại bỏ Do Thái giáo và Kinh Thánh Do Thái; họ tin có hai Đấng Tạo Hóa tách biệt (một ác thần tạo thế giới vật chất và một Thiên Chúa tốt lành tạo thế giới thiêng liêng), và tin Đức Giêsu chỉ “có vẻ” mang thân xác (“ảo thân” hay docetism). Rải rác trong các cộng đoàn “chính thống” có các tín đồ Ngộ giáo (Gnosticism): họ tin một số người không có linh hồn, số khác có linh hồn nhưng không có “tia thần tính”, và một nhóm tinh hoa thì có tri thức huyền nhiệm đặc biệt.
Vậy làm thế các quan điểm mà hôm nay ta coi là “chính thống” đã hình thành? Làm thế nào một văn bản trở thành quy điển, tông truyền và lưu hành rộng rãi? Trước nhất, phải có các cơ cấu trong Giáo hội để hướng dẫn các cộng đoàn riêng lẻ và để ngăn ngừa giao dân khỏi rơi vào tư tưởng lạc giáo. Các hội đồng giám mục phải tổ chức những công nghị để giải quyết vấn đề vượt thẩm quyền của một giám mục; và đến năm 325, đôi lúc có những cuộc họp “đại kết” gồm các giám mục từ khắp nơi trên “thế giới” lúc ấy.
Cấm đạo và các thánh tử đạo
Tác giả Kitô giáo đầu thế kỷ III Tertullianô viết: “Máu các vị tử đạo là hạt giống của Giáo Hội.” Vì vậy, chúng ta xét các cuộc bách hại và ảnh hưởng của chúng trên những người không bị giết. Các cuộc tử đạo dẫn đến việc hình thành phong trào kính các thánh tử đạo, cùng với các tông đồ, là những vị thánh đầu tiên. Ta cũng xét ý nghĩa của tử đạo đối với Giáo Hội Công giáo trong các thế kỷ sau khi bách hại Rôma chấm dứt. Những câu chuyện sớm nhất về bách hại các môn đệ Đức Giêsu nằm trong sách Công vụ Tông đồ. Stêphanô--một trong bảy phó tế (Cv 7)--bị ném đá bên ngoài Giêrusalem. Việc tông đồ Giacôbê bị giết khiến Santiago de Compostela (Tây Ban Nha) trở thành một điểm hành hương quan trọng.
Truyền thống kể rằng Phêrô và Phaolô, cùng các môn đệ khác, bị giết ở Rôma thời Nêrô. Phêrô bị đóng đinh ngược tại Vatican; Phaolô bị chém đầu bên ngoài thành. Về sau, có thêm các chuyện kể về tử đạo của mọi tông đồ, nhưng các câu chuyện ấy không thể chứng minh bằng chứng cứ lịch sử còn lại. Cuối thế kỷ I, II và đầu III, Kitô hữu chủ yếu đối mặt với các cuộc bách hại lẻ tẻ, cục bộ trong Đế quốc Rôma. Những công kích địa phương thường do Kitô hữu từ chối thờ các thần của nhà nước. Đôi khi mùa màng thất bát hay tai họa khác khiến người ta đổ lỗi cho hành vi của Kitô hữu. Những nguồn sống động như trước tác của thánh Inhaxiô và thánh Perpêtua cho thấy lòng can đảm của các Kitô hữu khi chết vì đức tin.
Giữa thế kỷ III, Kitô giáo đã lan rộng trong Đế quốc, dù chỉ là một thiểu số nhỏ. Hoàng đế Đêxiô là người đầu tiên tìm cách tiêu diệt Kitô giáo qua một cuộc bách hại toàn diện khoảng năm 250. Những hoàng đế khác theo sau, đặc biệt Điôclêtiên đầu thế kỷ IV. Bách hại thường buộc Kitô hữu phải nộp sách thánh và dâng lễ vật cho một thần Rôma. Khi bách hại chấm dứt, Kitô hữu tranh luận về việc cho phép những người chối đạo quay về Giáo Hội. Các cuộc bách hại này đã sản sinh nhiều vị tử đạo lừng danh. Chuyện đời các ngài, được biên soạn trong Truyền thuyết Vàng (thế kỷ XIII), đã là đề tài nghệ thuật suốt nhiều thế kỷ.
Trong Giáo Hội sơ khai tử đạo được xem là sự bắt chước Đức Kitô đến cùng. Nó củng cố đức tin nơi các tín hữu. Có lẽ nó cũng khơi lên ít nhiều cảm phục nơi một số người ngoài Kitô giáo và là yếu tố dẫn đến một số cuộc trở lại. Hầu như tất cả các thánh sớm nhất đều là tử đạo. Tín hữu mai táng hài cốt các ngài; ngày qua đời được tưởng niệm hằng năm. Tử đạo được coi là con đường chắc chắn nhất để được cứu độ. Khát vọng tử đạo vẫn là yếu tố quan trọng trong đời nhiều Kitô hữu—vang vọng trong đời đan tu.
Mãi cho tới khoảng năm 1200—việc tuyên phong ai là thánh là chuyện địa phương do giám mục hoặc viện phụ thực hiện. Thông thường, một phép lạ được công bố qua lời chuyển cầu của vị thánh đã qua đời; thi hài ngài được cải táng trên mặt đất để tín hữu đến kính viếng. Khoảng năm 1200, các Giáo hoàng tuyên bố chỉ mình Tòa Thánh có thẩm quyền tuyên thánh. Một thủ tục điều tra được thiết lập—về cơ bản vẫn còn hiệu lực hôm nay. Gần đây ta thấy các giáo hoàng miễn trừ một số thủ tục, như trong các trường hợp Mẹ Têrêsa Calcutta và Đức Gioan Phaolô II. Việc tử đạo trong Giáo hội đã không kết thúc với Chiếu dụ Milanô (313). Phêrô Verona—được gọi là thánh Phêrô Tử Đạo—bị giết ở Ý thế kỷ XIII bởi những người theo lạc thuyết mà ngài tố giác. Tử đạo xảy ra với các nhà truyền giáo đem Tin Mừng đến nơi xa. Thế kỷ XX chứng kiến hàng ngàn vị tử đạo Công giáo, gồm hàng trăm linh mục bị phong trào cộng sản sát hại ở Tây Ban Nha thập niên 1930.
Bình an giữa Giáo Hội và Đế quốc La Mã
Người ta thường nói rằng thế kỷ IV là giai đoạn biến đổi lớn nhất của Giáo Hội. Đầu thế kỷ, Kitô giáo là tôn giáo thiểu số bị bách hại; cuối thế kỷ, Kitô giáo là tôn giáo đa số và được ưu đãi chính thức trong Đế quốc Rôma. Thế kỷ này chứng kiến sự tăng trưởng khổng lồ, khởi đầu các quan hệ Giáo Hội—nhà nước, việc xây các đại thánh đường, và quá trình “Rôma hóa” Kitô giáo khi cơ cấu Giáo Hội bắt đầu phản chiếu tổ chức của đế quốc. Nhưng cũng là lúc Giáo Hội thỏa hiệp đáng kể với các định chế và thực hành của Rôma. Cuộc “hoán cải” lớn của Đế quốc sang Kitô giáo là con dao hai lưỡi—vừa tốt đẹp vừa nguy hiểm.
Thế kỷ IV, Kitô hữu từ chỗ thiểu số bị bách hại trở thành đa số được ưu đãi--thành viên của một tôn giáo chính thức. Những Kitô hữu nổi tiếng đầu thế kỷ là các vị tử đạo; còn cuối thế kỷ là các nhà thần học, mục tử và cả hoàng đế. Hoàng đế Điôclêtiên (284–305) ra lệnh cuộc bách hại đẫm máu nhất. Hàng ngàn người chịu tử đạo vì không chịu tế thần Rôma.
Năm 312, Constantinus trở thành hoàng đế phần Tây sau khi đánh bại Maxentius. Truyền thống kể: trước trận đánh, Constantinus mơ thấy thập giá và được bảo “nhờ dấu này, ngươi sẽ chiến thắng”. Truyền thống cũng nói ông cho vẽ thập giá trên khiên binh sĩ. Dù sớm dành thiện cảm cho Kitô giáo, Constantinus chỉ chịu phép rửa trước khi qua đời (337).
Năm 313, Constantinus và đồng hoàng đế Licinius (cai trị phương Đông) ban hành Chỉ Dụ Milanô: chấm dứt bách hại và chính thức khoan dung Kitô giáo—lần đầu hợp pháp hóa tôn giáo này. Năm 324, Constantinus đánh bại Licinius, trở thành hoàng đế duy nhất, và dời đô đến Byzantium (Constantinopolis). Khi rời Rôma, ông trao một cung điện cho giám mục Rôma; đó là Lateranô—trụ sở Giáo hoàng. Bất kể động cơ hoán cải là gì, Constantinus quan tâm đến tín lý và thực hành của Kitô hữu không chỉ như một người thiện cảm mà với tư cách hoàng đế. Ông chủ tọa Công đồng đại kết thứ nhất ở Nixêa dù chưa chịu phép rửa và dự vào việc xử lý lạc thuyết Đônatô. Ông ban nhiều sắc lệnh ủng hộ Kitô giáo, đỡ đầu nhiều công trình xây cất.
Thế kỷ IV đã mang lại tăng trưởng lớn nhất cho Kitô giáo. Bản thân Constantinus được một người theo thuyết Ariô rửa tội, và một người Ariô đọc điếu văn ông. Các con ông cũng thiên về Ariô. Cháu ông, hoàng đế Giulianô (361–363), chối bỏ Kitô giáo, được gọi là “kẻ bội giáo”. Đế quốc còn đối mặt với các mối đe dọa bên ngoài như Ba Tư và người Goth. Dẫu vậy, cuối thế kỷ, có lẽ một nửa dân số đế quốc là Kitô hữu. Kitô giáo có địa vị chính thức; người theo tôn giáo khác chịu các hình phạt dân sự. Đây là giai đoạn Rôma hóa của Kitô giáo và hội nhập đức tin vào đời sống Rôma. Giáo Hội phản chiếu cơ cấu địa phận (diocese) của đế quốc. Các giám mục được giao vài trách nhiệm dân sự và tiếp nhận vài tước hiệu của Rôma ngoại giáo, như giám mục Rôma dùng tước “Pontifex Maximus”. Giáo Hội, vốn rất chủ hòa ban đầu, dần chấp nhận chiến tranh và bạo lực ở một mức nào đó.
Trong khi Giáo Hội thỏa hiệp đáng kể với các hoàng đế, thì các giám mục cũng đã dùng quyền bính để gây sức ép buộc hoàng đế hành động theo ý họ. Ambrôsiô, tổng giám mục Milano, từ chối cho hoàng đế Thêôđôsiô rước lễ cho tới khi ông đền tội vì sát hại nhiều Kitô hữu ở Hy Lạp, và cho tới khi ông ngưng dùng công quỹ xây lại một hội đường Do Thái bị Kitô hữu đốt. Thực sự, chính ở thế kỷ IV ta mới có thể nói về mối quan hệ Giáo Hội—nhà nước. Đây cũng là thời gian Kitô hữu xây các công trình lớn và đặt làm nghệ thuật công cộng. Vài đại vương cung thánh đường ở Rôma và các thành khác được khởi dựng trong thế kỷ IV–đầu V. Nhà thờ thánh Costanza--con gái Constantinus—ngày nay còn lưu giữ bức khảm lớn diễn tả Đức Kitô và các tông đồ từ niên đại cuối thế kỷ IV.
👉 (đọc tiếp các chương tiếp theo tại đây)
Chưa có Đánh giá/Bình luận nào được đăng.
Hãy trở thành người đầu tiên đóng góp nội dung cho Bài viết này.