Tổng lược về thánh Bonaventura
B. THÁNH BONAVENTURA (1221-1274)
I. TỔNG LƯỢC VỀ TH. BONAVENTURA
II. TƯ TƯỞNG
III. SIÊU HÌNH HỌC MANG TÍNH THẦN HỌC CỦA BONAVENTURA
IV. TRI THỨC LUẬN CỦA BONAVENTURA
V. TƯƠNG QUAN TRIẾT - THẦN
A. THÁNH BONAVENTURA (1221-1274)
I. TỔNG LƯỢC VỀ TH. BONAVENTURA[1]
Thánh Bonaventura là một vị tiến sĩ rất có uy tín trong Giáo hội. Các vị Giáo Hoàng, trước như Sixtô IV, Sixtô V, sau như Leo XIII, cũng như các thánh như Phanxicô Salesio, đều hết lời tuyên dương ngài. Tư tưởng của ngài đã ảnh hưởng nhiều trên bảy Công Đồng liên tiếp, từ Lyon (1274) đến Latran (1512), kể cả Công Đồng Trente và Công Đồng Vatican I. Trong các Đại học của Châu Âu Công giáo đều có chương trình học về ngài bên cạnh thánh Albertô Cả, thánh Tôma Aquinô, Alexandre de Halès, Chân phước Duns Scot. Dòng Phan sinh vẫn luôn gắn bó với ngài, tuy đã công nhận rằng Duns Scot vượt qua ngài và bổ túc cho ngài về thần học Nhập Thể và triết học tri thức. Anh em trong Dòng vẫn tiếp tục học về ngài và đã có những môn đệ xuất sắc, như Giáo Hoàng Sixtô V, đấng đã phong ngài lên bậc tiến sĩ Hội thánh, và đem ngài vào chương trình học ở Học viện Mười Hai Thánh Tông Đồ tại Roma. Anh em Lúp Dài vẫn tôn ngài là vị tiến sĩ của chi nhánh.
Thánh Bonaventura trước được tuyên dương như một trong số các nhà triết học sâu sắc nhất của Trường phái Phan sinh, nhưng sau lại bị quên lãng. Triết học càng thiên về suy lý có tính ngôn từ và khái niệm hơn là kiến thức thực tế và có sự sống, thánh Bonaventura và vị thầy của ngài là thánh Âu Tinh lại càng có ít người biết đến. Tuy nhiên, ngày nay, khi thuyết duy lý qua con đường hư ảo đã đi đến một cùng đích trống rỗng, và sự cố gắng chung đã phục hồi được sự sống trong tư duy, người ta nhận thấy rằng thánh Bonaventura, cũng như thánh Âu Tinh và còn hơn thánh Âu Tinh, quả thực là vị Tiền hô của triết học gọi là hiện sinh.
Có người cho rằng thánh Bonaventura đi xuống cũng song song với thánh Tôma Aquinô đi lên, lý do là ngài không theo Aristote như thánh Tôma. Các sử gia triết học hiện đại đã bác bỏ luận cứ này. Ngài đã rất ý thức khi ngài chủ trương không theo Aristote. Không theo Aristote không có nghĩa là theo Platon. Ngài đã xa Platon, bởi ngài trung thành với Đức Kitô. Ngài biết rõ về Aristote. Alexandre de Halès đã dạy ngài về thuyết tiêu dao của Aristote. Ngài đã trích dẫn Aristote nhiều. Ngài đã sử dụng nơi Aristote những gì có thể giúp hoàn thành hệ thống tư tưởng của ngài, giúp cho phương pháp luận lý, cho bố cục các tư tưởng được hài hoà cân đối, cho diễn đạt các công thức được gãy gọn và sáng sủa.
Ngài viết: “Trong các triết gia, Platon nhận được lời của Khôn ngoan, Aristote nhận được lời của Khoa học. Vị trước xem trọng các lý lẽ thượng tầng, vị sau, các lý lẽ hạ tầng. Nhưng lời của Khôn ngoan cũng như của Khoa học đã được Chúa Thánh Thần ban dồi dào cho thánh Âu Tinh, như ta đã thấy trong các tác phẩm của ngài, bởi ngài là vị chú giải hàng đầu của Thánh Kinh.” (hiểu là Mặc khải). Đoạn văn trên có nghĩa là trong tri thức, suy lý chưa đủ, phải có mặc khải. Thánh Bonaventura thường thiên về các luận đề Âu Tinh, bởi các luận đề ấy phổ thông, tuy nhiên nếu không có căn cứ, ngài sẽ không theo.
Ngài có thể tuyên dương Platon, hơn Aristote, là vị minh triết khôn ngoan. Ngài trách Aristote quá gắn bó với trật tự có thể cảm thức. Ngài chê Platon ngược lại chủ trương có thể hiểu biết được những gì là khả niệm, khả tri. Aristote cho rằng tri thức phát xuất từ con đường cảm quan, từ ký ức, từ kinh nghiệm.
Thánh Bonaventura không viết sách triết lý. Nhưng vẫn có triết lý trong các tác phẩm của ngài, khi ngài đưa ra các châm ngôn triết lý trong nghiên cứu các vấn đề thần học. Theo ngài, triết lý rất hữu ích. Triết lý là một kỷ luật của trí tuệ. Triết lý phải dựa trên thực tại, nếu không sẽ chỉ bắt được cái bóng hoặc sẽ sai lầm. Triết lý là một kỷ luật không thể thiếu, nhưng phải giữ nó lại trong vai trò, trong giới hạn của nó, nếu không sẽ rơi vào cái cường điệu thái quá của biện chứng, của duy lý, hoặc bị tràn ngập bởi một lãnh vực không phải là của ngài.
Ngài có lý do của ngài, và lý do ấy là tư tưởng và cuộc sống luôn trung thành với Đức Kitô. Có thể được không? Có phù hợp không với thực tế cụ thể, lịch sử, khi suy nghĩ và sống nhưng không quan tâm đến sự kiện Kitô giáo? Không kể đến toàn bộ vĩ đại đồ sộ các ý tưởng, các khái niệm các tập quán tâm linh, tâm trí đã thấm nhuần sâu đậm lên nền văn hoá tây phương? Chủ trương không biết đến các lý lẽ giải thích của sự kiện ấy về con người, về bản chất, về định mệnh của con người, cũng như về thiên nhiên, về giá trị của thế giới và về bản tính cũng như hành động của Thiên Chúa? Và nhất là không có được sự thông hiểu do sự kiện ấy thông đạt từ Thiên Chúa, sự thông hiểu từ truyền thống, từ kinh nghiệm. Đây không phải chỉ là sự kiện Kitô giáo, ảnh hưởng trên tư tưởng và đời sống con người, mà còn là một sự kiện lịch sử. Không thể nói đến triết học, nói chuyện triết học, mà không biết đến sự kiện Kitô giáo và các ảnh hưởng của sự kiện ấy. Sự kiện ấy cũng giống như sự kiện hồi giáo lan tràn trên các nước miền nam và miền đông Địa Trung Hải.
[1] Xin xem Thánh Bonaventura. Maria Antôn Trần Phổ, OFM. Học Viện Phanxicô 2005.
Chưa có Đánh giá/Bình luận nào được đăng.
Hãy trở thành người đầu tiên đóng góp nội dung cho Bài viết này.